Page 193 - Chính Sách Thương Mại Đối Với Sự Phát Triển
P. 193
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011
Mặc dù đã có một số chính sách phát triển DNNVV
nhưng còn thiếu những chính sách thúc đẩy mối liên kết giữa
các DN. Do đó, các DNNVV của Việt Nam được thành lập
nhưng khó tham gia vào mạng lưới sản xuất, cả trong và
ngoài nước. Kinh nghiệm của nước ngoài cho thấy, trong giai
đoạn đầu, cần xây dựng những DN giữ vai trò “neo” và các
quy định bắt buộc phải thuê ngoài (outsourcing) để các
DNNVV có điều kiện tiếp cận thị trường trong giai đoạn đầu.
Chính sách hỗ trợ và bảo lãnh tín dụng đầu tư của Việt
Nam tuy đã có nhưng còn mang tính chất đơn lẻ, chưa có sự
gắn kết rộng rãi quyền lợi của các bên (khách hàng, tổ chức
tín dụng, Nhà nước…) nên chưa tạo ra sự yên tâm vay vốn
đầu tư của DN. Chính vì thế, nhiều DNNVV chưa sẵn sàng
có những đầu tư dài hạn cho công nghệ, máy móc thiết bị để
nâng cao chất lượng SP, đáp ứng nhu cầu khác hàng.
Ưu đãi về thuế hay sự hỗ trợ về tài chính là những công
cụ chính sách cơ bản góp phần thúc đẩy CNHT, nó không chỉ
khuyến khích các nhà đầu tư mà còn tăng khả năng cạnh
tranh về giá của các nhà lắp ráp, khuyến khích chuyên môn
hóa sản xuất một số linh kiện nhất định có khả năng xuất
khẩu. Tuy vậy, những chính sách ưu đãi này ở Việt Nam
chưa rõ ràng, đa phần các chính sách ưu đãi thuế của Việt
Nam lại hướng vào các ngành công nghệ cao hay các dự án ở
vùng sâu, vùng xa, chứ chưa quan tâm đến các DN CNHT
trong và ngoài nước.
Chính sách phát triển các khu, cụm CN vẫn chỉ tập
trung vào số lượng, thiếu quy hoạch đồng bộ trên phạm vi cả
nước. Các khu, cụm CN thường mang tính chất đa ngành,
chưa phát huy được sự tương tác giữa các DN cùng ngành,
cùng lĩnh vực trong khu/cụm CN. Nhiều khu CN được bố trí
193