Page 194 - Chính Sách Thương Mại Đối Với Sự Phát Triển
P. 194
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam
cạnh nhau (trên địa bàn 2 giáp ranh) nhưng không có sự khác
biệt nên dẫn đến tình trạng cạnh tranh thu hút nhà đầu tư.
Các chính sách hỗ trợ phát triển DN CNHT chưa được
đặt trong khuôn khổ phân tích chuỗi giá trị để xác định các cơ
hội nâng cao hiệu quả hoạt động của các DN CNHT kết hợp
với sự hỗ trợ của Nhà nước. Vì vậy các chính sách hỗ trợ
phát triển DN CNHT vẫn còn lẻ tẻ, phân tán ít có tác động
đáng kể đến việc cải thiện hiệu quả hoạt động của các DN. Ví
dụ, một số chính sách khuyến khích hỗ trợ DN đổi mới công
nghệ, nâng cao sức cạnh tranh của SP hàng hoá bằng cách trợ
cấp một phần kinh phí sau khi các DN đã được cấp chứng
nhận quản lý chất lượng hoặc sau khi đã đăng ký bảo hộ nhãn
hiệu SP và kiểu dáng CN, hoặc hỗ trợ về đào tạo cán bộ quản
lý cho DN khó rất có thể tìm ra được mối liên hệ trực tiếp đến
việc cải thiện hiệu quả kinh doanh của DN.
3.3. Các khó khăn về quy mô cầu
Thị trường Việt Nam cho các nhà lắp ráp đặc biệt là các
nhà sản xuất ô tô còn quá nhỏ. Hơn nữa, mức độ tăng trưởng
của thị trường nội địa thấp. Với quy mô thị trường quá nhỏ,
nhiều DN lớn trong nước đã tỏ ra e ngại khi được đề nghị trở
thành về tinh của các tập đoàn lớn. Nguyên nhân là do học
phải bỏ vốn lớn ra đầu tư nâng cấp thiết bị dây chuyền cho phù
hợp với yêu cầu chất lượng, trong khi chưa thấy hiệu quả trước
mắt. Các nhà ĐTNN cũng ít quan tâm đầu tư vào CNHT.
3.4. Thiếu thông tin giữa các nhà sản xuất Việt
Nam và các nhà đầu tư nước ngoài
Một nguyên nhân nữa bắt nguồn từ tình trạng thiếu các
kênh thông tin giữa các DN ĐTNN/nhà lắp ráp, và giữa các
công ty nội địa có khả năng với các tập đoàn lớn bên ngoài,
194