Page 188 - Chính Sách Thương Mại Đối Với Sự Phát Triển
P. 188
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam
phải mất một thời gian dài mới tìm được nhà cung cấp tại Việt
Nam, song 90% trong số đó lại là DN có vốn ĐTNN.
Ngay cả khi đã chọn được nhà cung cấp linh phụ kiện
tại Việt Nam, các DN ĐTNN cũng chưa hoàn toàn yên tâm vì
chất lượng SP không đồng đều, chất lượng lô hàng sau kém
hơn lô hàng trước. Chính điều đó khiến các công ty e ngại đối
với các nhà cung cấp của Việt Nam.
Trong những năm qua số DN Việt Nam sản xuất linh
kiện phụ tùng có tăng lên, nhưng năng lực cũng chỉ dừng lại ở
mức độ sản xuất các chi thiết, linh kiện có kích cỡ lớn, cồng
kềnh và công nghệ đơn giản chứ chưa sản xuất được những SP
tinh vi. Theo nhiều DN sản xuất và lắp ráp có vốn ĐTNN,
ngành CNHT muốn phát triển phải đáp ứng được ba yếu tố:
Chất lượng, giao hàng đúng hẹn và giá cả hợp lý. Hiện nay rất
hiếm DN Việt Nam đáp ứng được cả ba yếu tố trên.
c. Tỷ lệ nội địa hóa trong các ngành công nghiệp của
Việt Nam là rất thấp
Một số ngành như dệt may, da giày, điện tử … đều phải
nhập nguyên liệu từ nước ngoài. Do vậy, họ luôn phải phụ
thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, không thể chủ động
được hoạt động sản xuất, kinh doanh, giá trị gia tăng của các
DN chỉ đạt 10%, một con số quá thấp so với các nước có
ngành CNHT phát triển khác.
Theo báo cáo của JETTRO, tỷ lệ nội địa hóa ở các DN
Nhật Bản tại Việt Nam là thấp nhất, ở mức 26,5% so với hơn
40% của các nước khác trong khu vực, như Malaysia và Thái
Lan tỷ lệ này là trên 45%. Các DN ĐTNN rất muốn phối hợp
với các nhà cung cấp trong nước để giảm chi phí sản xuất,
nâng cao sức cạnh tranh của SP, nhưng rất khó có thể tìm được
nhà cung cấp thích hợp.
188