Page 185 - Chính Sách Thương Mại Đối Với Sự Phát Triển
P. 185
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011
chỉ có một số DN xuất khẩu lớn mới có đủ khả năng tài chính
đáp ứng yêu cầu hệ thống quản lý chất lượng này để xuất
khẩu vào các thị trường có yêu cầu môi trường cao như Nhật
Bản, Hoa Kỳ, EU.
2.2. Sự tác động của những hạn chế về chính sách
thương mại trong việc phát triển công nghiệp hỗ trợ
a. Số lượng các doanh nghiệp hoạt động trong khu vực
này còn rất nhỏ
Các DN này chủ yếu là các DNNVV, thuộc sở hữu nhà
nước, vẫn còn thói quen bao cấp nên rất thụ động trong việc
tìm kiếm khách hàng và “ngại” đổi mới. Các DN lắp ráp và
sản xuất SP cuối cùng muốn hoạt động phải tự tìm đến họ.
Trong ngành CN ô tô, theo Bộ Công thương, hiện nay
Việt Nam có tới 50 DN lắp ráp ô tô, nhưng chỉ có trên 60 DN
cung cấp linh kiện, quá thấp so với con số 385 DN ở
Malaysia và 2.500 DN ở Thái Lan. Trong khi các DN đưa ra
khoảng 35 loại xe ô tô, năm nào cũng có những mẫu xe mới,
mỗi xe có khoảng 30.000 chi tiết thì số lượng nhà cung cấp ở
trong nước còn quá nhỏ bé. Theo tính toán, một DN ô tô phải
cần tối thiểu 20 nhà cung cấp các loại linh kiện khác nhau.
Nhưng trên thực tế, thời gian qua, các DN lắp ráp ô tô chỉ có
2-3 nhà cung cấp linh kiện trong nước. Do vậy, nhiều DN
phải phụ thuộc vào nguồn linh kiện nhập khẩu.
Theo kinh nghiệm của Nhật Bản thì khu vực hạ nguồn
phải hình thành được 4 cấp bậc sản xuất với hàng nghìn DN
tham gia vào quá trình. Trong đó, nhiều nhất là các DN cung
cấp nguyên vật liệu, tiếp đến là các DN nhỏ, các DN lớn vừa và
DN rất lớn cung cấp linh kiện. Theo đó, nhà cung cấp ở Việt
Nam mới chỉ dùng lại ở cấp 2 với khả năng đáp ứng hạn chế về
cả số lượng và chất lượng.
185