Page 186 - Chính Sách Thương Mại Đối Với Sự Phát Triển
P. 186
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam
Trong số này, các DNNN chiếm phần lớn nhất. Các DN
này trước đây là các xí nghiệp cơ khí hóa chất nay chuyển đổi
hoạt động sang lĩnh vực sản xuất SP CNHT cho lắp ráp ô tô,
chủ yếu cung cấp cho các DNNN khác tho mô hình khép kín.
Một số DN hỗ trợ có hiệu quả cho CN sản xuất xe máy nội địa
cũng mở rộng loại hình sản xuất, kinh doanh sang lĩnh vực hỗ
trợ cho lắp ráp ô tô. Còn lại là các DN tư nhân mới hình thành
và một số cơ sở được các liên doanh sản xuất, lắp ráp ô tô đầu
tư nhằm cung cấp cho quá trình sản xuất của mình.
CNHT Việt Nam còn yếu do các DN vẫn mạnh ai nấy
làm. Trong khi đó, đối với sản xuất phải chuyên môn hóa sâu
và hợp tác rộng mới đem lại hiệu quả cao nhất. Nhiều DN do
chưa tính toán được mức lợi nhuận so với chi phí đầu tư nên
cũng chưa thực sự vào cuộc. Một thực tế nữa là, trong số DN
Việt Nam làm CNHT rất ít các DN cung ứng linh kiện. Hiện
nay chủ yếu là các nhà cung ứng linh kiện Nhật Bản đang đầu
tư vào Việt Nam, tiếp theo là các DN Đài Loan, cuối cùng là
các DN Việt Nam. Điều này khiến giới đầu tư Nhật Bản đang
làm ăn tại Việt Nam lo lắng khi mà họ không thể đặt hàng
các linh phụ kiện tại thị trường nội địa, như các đối thủ đang
hoạt động tại Thái Lan, Malaysia, hay Philipines. Một nghiên
cứu của tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) cho
thấy phần lớn những linh kiện do DN Việt Nam cung cấp chỉ
bao gồm những mặt hàng sơ chế như vật liệu đóng gói, quần
áo đồng phục, giày, găng tay … còn các linh kiện như khuôn,
linh kiện thành hình nhựa thì phần lớn đều phải nhập khẩu.
Các DN trong lĩnh vực CNHT gặp khó khăn về vốn và
kỹ thuật cũng như đầu ra trong điều kiện quy mô thị trường
quá nhỏ. Luôn tồn tại một khoảng cách quá lớn giữa yêu cầu
về chất lượng SP, giá bán cũng như thời hạn giao hàng của
các DN nước ngoài so với khả năng đáp ứng của các DN
186