Page 252 - Các Thuốc Chống Dị Ứng
P. 252
Theo dõi sự nhiễm độc ở những bệnh nhân sử dụng mạn
tính glucocorticoid cần bao gồm các test xác định ức chế trục
HPA, cataract (đục thuỷ tinh thể), tăng glucose huyết, tăng
huyết áp và chú ý đến các dâu hiệu loãng xương. Điều trị calci
và 25 - hydroxy vitamin D có thể được chỉ định trong những
trường hợp loãng xương nặng do steroid. Do sự loãng xương do
steroid có thể không phục hồi nên có thể sử dụng các biện pháp
nhằm ngăn chặn sự mất xương bằng cách sử dụng kết hợp
vitamin D, calci và nếu thích hợp, estrogen ỏ những bệnh nhân
dự định phải sử dụng lâu dài steroid toàn thân. Có thê theo dõi
chức năng của tuyến thượng thận bằng cách đo nồng độ cortisol
trong máu vào buổi sáng, chỉ sô này tương quan tôt với khả
năng của bệnh nhân đối trọi với stress do phẫu thuật hoặc do
giảm nồng độ glucose trong máu. Do giá trị nồng đô hydrocortisone
bình thường đầu buổi sáng khác nhau đáng kể nên cần phải
thực hiện vài lần đo, việc đo như vậy cần phải được thực hiện ít
nhất 12 giò sau khi sử dụng corticosteroid để giảm sự ảnh
hưỏng của steroid sử dụng đốì với các xét nghiệm
hydrocortisone. Việc đo lượng steroid trong nước tiểu trong vòng
24 giờ có thể là chỉ sổ* nhậy cảm hơn về sự ức chế tuyến thượng
thận. Ngừng đột ngột sử dụng steroid toàn thân có thể đặt một sô"
bệnh nhân hen vào nguy cơ đột tử. Ngừng sử dụng corticosteroid
sau khi sử dụng nhiều tuần hoặc nhiều tháng dẫn đến hội
chứng dừng steroid, hội chứng này đặc trưng bải cảm giác mệt
mỏi toàn thân, sốt, đau khớp, đau bụng, buồn nôn, nôn. Đã có
các công bô" về tính mẫn cảm với hydrocortisone ỏ những bệnh
nhân hen mẫn cảm với aspirin. Trong trường hợp này cần sử
dụng một loại steroid khác.
III. CÁC TÁC ĐỘNG KHÁNG VIÊM
1. Các tác động lên chức năng của các tế bào viêm
a. Các lymphocyte
Như đã nói ỏ trên, điều trị steroid có thể làm giảm tổng sô" lượng
lymphocyte tuần hoàn. Tuy nhiên điều tri steroid có ảnh hưởng
254