Page 244 - Các Thuốc Chống Dị Ứng
P. 244
4. Trong trường hợp ức chế gián tiếp (hình 7 C), sự sản xuất
quá mức chất kích hoạt AP-1 (chẳng hạn IL-1) có thể đối kháng
với tác động của steroid bằng cách tăng sản xuất AP-1.
5. Sự cần thiết sao chép và giải mã trong nhiều phản ứng
của steroid làm cho các tác động của steroid trở nên nhậy cảm
với các chất ức chế sao chép hoặc tổng hợp protein.
6. Thòi gian bán tồn tại của phức hợp steroid - thụ thể và tỷ
lệ thụ thể steroid đã gắn kết với steroid được quyết định bởi ái
lực của steroid đối với thụ thể. Các steroid tiểm năng và tồn tại
dài hơn (như các steroid đã pluorinate hóa ỏ vị trí 9a như
dexamethasone) có ái lực lớn hơn đối với thụ thể.
2. Các tác động chuyển hóa
Các glucocorticoid điều tiết sự chuyển hóa carbohydrate,
lipid và protein, điều tiết sự cân bằng muối và điện giải và chức
năng của hầu hết các hệ cơ quan chính bao gồm: phổi, thận, tim
mạch và hệ thần kinh. Một sô' tác động của glucocorticoid lên
các hệ cơ quan này đa dạng và sẽ được xem xét trong chương
này. Tác dụng điều tiết của glucocorticoid lên chuyển hóa
glucose bao gồm kích thích sự tạo thành glucose, giảm sự sử
dụng glucose ngoại biên và ủng hộ sự lưu giữ glucose dưới dạng
glycogen. Những tác động này của glucocorticoid duy trì nồng độ
của glucose trong thòi kỳ đói - một tác động có lợi b ả o v ệ các
trung tâm não là những mô rất cần glucose để tạo năng lượng.
Các glucocorticoid kích thích sự tạo thành glucose từ các amino
acid có nguồn gốc từ cơ và xương, hệ quả là làm mất cơ và loãng
xương nếu sử dụng lâu dài. Glucocorticoid tạo dễ dàng cho sự
• giải phóng các acid béo từ các lipid trung tính trong mô mỡ nếu
sử dụng lâu dài và gây ra sự tái sắp xếp mỡ trong cơ thể. Một số
glucocorticoid được sử dụng trong lâm sàng (như hydrocortisone
và prednisolone) có các tính chất mineralocorticoid, gây ra sự
giữ muối trong cơ thể bằng cách kích thích tái hấp thụ Na
(natrium) tại các tiểu quản thận.
246