Page 239 - Các Thuốc Chống Dị Ứng
P. 239

prednisone, chứng tỏ rằng nó có ít tác động kháng hen nội sinh.




                                                Tác  động  của  TAO  làm  giảm  sự  phân  hủy  do  chuyển  hóa




                                                methylprednisolone có thể giải thích hiệu quả của nó trong điều




                                                trị kết hợp.







                                                               Sự  chuyển  hóa  tại  chỗ  trong  các  mô  của  cortisol  nội  sinh




                                                ngày  nay  đã  được  chứng  tỏ  có  vai  trò  điều  tiết  tác  động  của




                                                steroid.  Ví  dụ,  11  p-hydroxysteroid  dehydrogenase  (lip   HSD




                                                 [bước  3,  hình  5])  “bảo  vệ”  các  thụ  thể  mineralocorticoid  trong




                                                thận khỏi  cortisol  và  có  thể làm  suy giảm  các  tác  động kháng





                                                viêm  của  các  steroid  nội  sinh  trong da và  phổi bằng cách  biến




                                                đổi hydrocortisone trong các mô này thành cortisone là một châ't




                                                không  có  hoạt  tính  gắn  kết  với  thụ  thể  bên  trong  (intrinsic




                                                receptor),  ức chế men này bằng một chất trong cây cam thảo là




                                                glucyrrhetinic acid,  tạo ra các tác động mineralocorticoid trong




                                                thận và tác động kháng viêm trong da. Có khả năng là các chất





                                                 tương tự có hiệu quả trong phổi đang được khám phá.









                                                               d. Sử dụng và hấp thụ







                                                               Cả hai loại steroid tự nhiên và tổng hợp là các chất ưa lipid,




                                                 dễ  dàng  hấp  thụ  sau  khi  sử  dụng  qua  đường  miệng,  dưối  da,




                                                 trong  tĩnh  mạch  hoặc  tại  chỗ.  Các  phosphate  hoặc




                                                 hemisuccinate ester của các glucocorticoid được sử dụng thường




                                                xuyên theo đường tĩnh mạch bởi vì chúng có tính hoà tan trong




                                                 nưốc cao. Sau khi sử dụng tại chỗ ỏ da, một sô" lượng đáng kể các




                                                 steroid  có  thể  vẫn  còn  tồn  tại  tại  chỗ  trong  một  thời  gian  dài.




                                                 Tương tự như vậy hiện đã có các chế phẩm giải phóng chậm của





                                                 steroid, khi tiêm dưới da sẽ giải phóng steroid vào trong hệ tuần




                                                 hoàn trong một quãng thời gian dài. Các steroid thường được sử




                                                 dụng qua đưòng miệng để chữa bệnh hen mạn tính. Tuy nhiên,




                                                 sử dụng các  steroid tại chỗ để điều trị hen, viêm  mũi dị ứng và




                                                 các  bệnh  ở  da  đạng tăng lên  một  cách  nhanh  chóng vì  nó  làm




                                                 giảm  tỷ  lệ  mắc  các  tác  dụng  phụ.  Sử  dụng  các  steroid  ngoài




                                                 đường miệng (parenteral route) đôi khi được sử dụng để diều trị

















                                                 T 1 6 - C T C D Ư                                                                                                                                                                                                               241
   234   235   236   237   238   239   240   241   242   243   244