Page 240 - Các Thuốc Chống Dị Ứng
P. 240
những cơn hen nặng hoặc phản vệ. Ở những bệnh nhân mà chức
năng chuyển hóa của gan bình thường, người ta thường dùng
prednisone bởi vì nó rẻ hơn so với prednisolone. Các nghiên cứu
ngày nay cho thấy rằng methylprednisolone có thể thâm nhập
vào phổi tốt hơn prednisolone.
Có một sô" những bệnh nhân hen đã được mô tả là kháng với
liệu pháp điều trị steroid. Các bạch cầu của những bệnh nhân
này đã được chứng minh là đề kháng với các steroid in vitro mặc
dù có sô" lượng thụ thể steroid bình thường. Có thể là sự đề
kháng này là kết quả của sự suy giảm ái lực của thụ thể steroid
gắn kết với các vị trí đặc biệt trong ADN gọi là GRE
(glucocorticoid response elements) hoặc các quá trình sau sao
chép khác (xem ở dưới).
h. Sừih học phàn tử
Tác động của các steroid hormon đòi hỏi có các b ư ớ c đ ư ợ c
minh họa trong hình 6.
Hormon tự do (tức là không liên kết với albumin hoặc
transcortin) thấm qua màng bào tương và liên kết với các thụ
thể steroid đặc hiệu nhóm. Sau khi liên kết steroid với thụ thể,
diễn ra sự biến đổi phức hợp steroid - thụ thể bao gồm
dephospho hóa (mất phospho) thụ thể và phân ly khỏi các
protein sôc nóng (heat shock proteins) mà thụ thể gắn kết. Phức
hợp steroid - thụ thể sau đó đi vào trong nhân tế bào, tại đó nó
gắn kêt với một GRE đặc hiệu (xem trong hình 6) trong
chromatin. Sự gắn kết này đ ư ợ c thực hiện thông qua các cấu
trúc thuôn dài có chứa kẽm gọi là “các ngón tay kẽm” (zinc
fingers) đặc hiệu đốì với GRE. Mặc dù các thụ thể steroid nói
chung có cảm tưồng tồn tại ở trạng thái tự do trong bào tương
và chỉ đi vào trong nhân tế bào sau khi gắn kết với steroid,
nhưng có một sô" bằng chứng cho thây rằng các thụ thể steroid
tự do trong thực tế có mặt trong nhân. Đe chỉ sự tranh cãi này,
sự tương tác của steroid với thụ thể được thể hiện là một vùng
242