Page 220 - Các Thuốc Chống Dị Ứng
P. 220
Các chất đốỉ kháng thụ thể H2 mới hơn, như etintidine,
nizatidine và roxatidine cũng giông với các chất đối kháng H2
trên vê mặt pharmacokinetic và được đào thải một cách nhanh
chóng, chủ yếu qua đường thận.
a. Pharmacokinetics
Các chất đổì kháng H2 đã làm giảm mạnh mẽ tỷ lệ mắc bệnh
và tỷ lệ tử vong do bệnh loét đường tiêu hóa, loét do stress cấp
tính, trào ngược dạ dày thực quản, hội chứng Zollinger- Ellison
và các bệnh liên quan khác. Rất đơn giản, người ta đã chứng tỏ
được sự tương quan trực tiếp giữa nồng độ chất đốỉ kháng H2
trong máu và sự giảm bài tiết acid trong dạ dày. Chưa có tài liệu
về sự tương quan pharmarodynamic trực tiếp với các tác động
miễn dịch của các chất đồng vận H2 trong các bệnh dị ứng và
trong các bệnh thiếu hụt miễn dịch nguyên phát và mắc phải.
Các chất đổi kháng H2 như cimetidine và ranitidine sử dụng
một mình có tác động yếu, khác nhau lên phản ứng do histamine.
Sử dụng đồng thòi một thuốc đốỉ kháng H2 và một thuốc đổì
kháng Hx nói chung có hiệu quả hơn so vói sử dụng một mình
thuổc đôi kháng Hj hoặc H2, nhưng mức độ ức chê tăng chỉ
khoảng 10%. Trong một sô" nghiên cứu, tác động ức chế này được
công bô" cao hơn đáng kể, nhưng một số nghiên cứu khác liên
quan đến sô" lượng nhỏ bệnh nhân lại cho rằng tác dụng ức chế
tăng lên không đáng kể. Người ta cũng đã phát hiện thấy sự cộng
hưởng khi các chất đối kháng Hị và H2 được sử dụng đồng thời
qua đường miệng hoặc tại chỗ bằng cách tiêm trong bì. Người ta
cho rằng cơ chế của sự tăng ức chế là do tác động trực tiếp của
cimetidine hoặc ranitidine lên các thụ thể H2 trong các mạch máu
da trong việc ngăn chặn sự giãn mạch. Tuy nhiên, có bằng chứng
ồ mẫu động vật và người rằng sự cộng hưởng giữa các đổỉ kháng
và các đôi kháng H2 ít nhất một phần là do tác động
pharmacokinetic. Ví dụ, cimetidine ức chế sự loại thải ở gan của
hydroxyzine dẫn đến nồng độ hydroxyzine trong huyết thanh cao
hơn so với khi sử dụng hydroxyzine một mình.
222