Page 216 - Các Thuốc Chống Dị Ứng
P. 216
c. Chức năng của các chất đối kháng H2
Tất cả các chất đối kháng H2 thể hiện sự tương tác cạnh
tranh thuốíc - thụ thể kinh điển và có chọn lọc. Việc chiếm giữ
các thụ thể H2 bởi histamine kích hoạt adenylate cyclase, làm
tăng nồng độ cAMP trong tế bào và điều này kích hoạt cơ chế
bơm proton của các tê bào niêm mạc dạ dày để bài tiết các H+
ngược chiều gradient nồng độ trong việc trao đổi với các Na+.
Các chất đốĩ kháng H2 khác nhau vể khả năng ức chế sự bài tiết
acid do histamine trong dạ dày; ví dụ famotidine có khả năng
hơn cimetidine 20 - 100 lần và hơn ramitidine tới 6-17 lần. Sự
tăng hoạt tính adenylate cyclase và cAMP do thụ thể H2 cũng
được chứng minh trong các mô dạ con, cơ tim và mô mỡ.
Người ta đã đưa ra giả thuyết rằng các chất đối kháng H2 là
các chất kích thích miễn dịch vì chúng phong bế các tác động của
histamine nội sinh bằng cách gắn kết cạnh tranh với các thụ thể
H2; tuy nhiên có thể là chúng tác động một cách độc lập, không
phụ thuộc vào histamine. Các tác động kích thích miễn dịch này
đã được chứng minh in vitro vjì in vivo. Phần lớn các nghiên cứu
được thực hiện vối cimetidine; các chất đối kháng H2 khác không
được nghiên cứu một cách toàn diện như vậy. Ranitidine và
roxatidine, đều không chứa vòng imidazole, cũng có một sô' tác
dụng kích thích miễn dịch, nhưng famotidine lại không.
2. Sự hâ'p thụ, phát tán, chuyển hóa và bài tiết
Về mặt pharmacokineties, các chất đốỉ kháng H2 tương đối
giống nhau và đặc trưng bỏi sự hấp thụ nhanh chóng sau khi sử
dụng qua đường miệng vối nồng độ đỉnh điểm ban đầu trong
huyết thanh xuất hiện trong vòng 1-3 giò, sau đó là nồng độ
đỉnh điểm thứ hai (bảng 7). Sau khi sử dụng cimetidine,
ranitidine, famotidine hoặc nizatidine đưòng tĩnh mạch, nồng
độ trong máu giảm xuống theo kiểu luỹ thừa 2. Tất cả các chất
đối kháng H2 loại thải một cách nhanh chóng với các giá trị bán
loại thải khỏi huyết thanh cuòì cùng là 1-3 giờ và tốc độ đào thải
218