Page 212 - Các Thuốc Chống Dị Ứng
P. 212
bằng chứng cho thấy có suy giảm các triệu chứng ở trẻ sơ sinh
có mẹ sử dụng các chất đốỉ kháng Hi thế hệ 2 trong thời kỳ
mang thai sau hoặc trong thời kỳ đẻ, nhưng các thuốc này vẫn
được xếp loại l à các thuốíc loại c đ ố ỉ với mang thai và chỉ c ó thể
sử dụng trong thòi kỳ mang thai nếu cho rằng lợi ích đem lại
cho mẹ lớn hơn nguy cơ cho thai.
Các chất đốỉ kháng Hx được bài tiết vào trong sữa mẹ, mặc
dù mới chỉ có bằng chứng đã công bô" đốỉ với loratadine. vẫn
chưa có các công bô' về pharmacokinetics, pharmacodynamics và
tác dụng lâm sàng của các chất đốĩ kháng Hi ở trẻ sơ sinh hoặc
trẻ dưới 1 tuổi.
5. Các chế phẩm đã có
Các thuốc đổi kháng Hj thế hệ 2 như terfenadine, astemizole,
loratadine và cetirizine đã thay thế hầu hết các chất đối kháng
Hi thế hệ đầu trong việc điều trị viêm mũi kết mạc dị ứng do
chúng có tỷ lệ lợi/nguy cơ hại tốt hơn. Việc sử dụng rộng rãi các
chất đối kháng Hị trong điểu trị các bệnh nhiễm trùng đưòng hô
hấp trên và tai giữa không được ủng hộ do có bằng chứng thuyết
phục về sự thiếu hiệu quả. Các thuốc đôi kháng Hị không được
coi' là thuốc hàng đầu chống lại bệnh hen, tuy nhiên chúng có
tác động kháng hen ỏ các liều lượng cao hơn liều lượng cần để
điều trị viêm mũi kết mạc dị ứng. Trong bệnh mày đay mạn
tính, các chất đối kháng Ha là các thuốc hàng đầu làm giảm
ngứa, giảm sự hình thành các nốt sần mói và giảm thời gian tồn
tại của nốt sần. Ngày càng sử dụng nhiều các thuốc đối kháng
Kị thế hệ 2 trong bệnh này. Tuy nhiên, ỏ những bệnh nhân có
viêm da quá mẫn, các thuốc kháng thụ thể thế hệ 2 nói
chung vẫn chưa đườe chứng minh có ưu thế hdn so với các thuốc
kháng Hx thế hệ đầu.
Các dạng thuốc vàcCáe liều lượng khúỷên dùng của các chất
đối kháng Hi đại diện được liệt kê trong bảng 6. Do đã có bằng
chứng vể thời gian bán đào thải khỏi huyết thanh kéo dài của
214