Page 211 - Các Thuốc Chống Dị Ứng
P. 211
Sau khi sử dụng astemizole qua đương miệng, có tới 58%
bệnh nhân có thay đổi cảm giác vị giác, trong khi đó nếu sử
dụng tại chỗ trong mũi có 5% bệnh nhân có cảm giác nóng bỏng
trong mũi và chỉ có 3,5% thay đổi cảm giác vị giác. Sử dụng tại
chỗ levocabastine vào niêm mạc mũi hoặc kết mạc đôi khi gây
ra sự kích thích. Sử dụng tại chỗ azelastine hoặc levocabastine
trong thời gian ngắn không gây ra sự mẫn cảm tại chỗ.
Quan niệm về một chất đối kháng Hị hoàn toàn không gây
ngủ là một suy nghĩ quá đơn giản. Mức độ tác dụng hữu ích của
mỗi một chất đốì kháng cần phải được liên hệ với mức độ có
các tác dụng không mong muôn lên hệ thần kinh trung ương và
các hệ cơ quan khác, ví dụ như hệ tim mạch, và trong nghĩa
rộng hơn cần phải xây dựng một “tỷ lệ có lợi/nguy cơ có hại” đổi
vói mỗi một thuốc đối kháng Hx.
Kinh nghiệm lâm sàng trong việc điều trị các bệnh nhân cô"
tình sử dụng quá liều các chất đỗi kháng Hx thế hệ hai vẫn còn
hạn chế. Các phương pháp điều trị cơ bản là loại bỏ các chất
chứa trong dạ dày và ngăn chặn sự hấp thụ, sau đó là các biện
pháp điều trị hỗ trợ. Sau khi có nghi ngờ quá liều terfenadine
hoặc astemizole cần thực hiện đo điện tâm đồ và điều trị chống
loạn nhịp tim một cách thích hợp nếu cần. Hầu hết các thuốc đối
kháng thế hệ 2 không thể lọc được.
c. Sử dụng thuốc khi mang thai và cho con bú
Ngưòi ta phát hiện rằng các chất đối kháng Hi thế hệ đầu
gây ra các tác động gây quái thai ở động vật và ngưòi ta nghi
ngà rằng (chưa chứng minh) có thể gây ra dị dạng bào thai â
người. Người ta đã công bố có sự suy giảm các triệu chứng như
run rẩy, dễ bị kích động vài ngay sau khi sinh ỏ trẻ sơ sinh có
mẹ sử dụng các liều cao các chất đối kháng Hi thế hệ đầu như
hydroxizine hoặc diphenhydramine ngay trước khi đẻ.
Trong khi vẫn chưa có bằng chứng chứng tỏ các chất đôì
kháng Hi thế hệ 2 gây ra các dị dạng thai nhi ỏ người và chưa có
213