Page 173 - Các Thuốc Chống Dị Ứng
P. 173
chế sự sản ximt superoxide từ các bạch cầu trung tính và bạch
cầu ưa acid của người và cũng gây ra ức chế sự tập hợp tiếu
cầu do PAF.
In vivo, điều trị trước trong vòng 2 ngày bằng cetirizine ở
bệnh nhân đã được gây kích thích bằng dị nguyên trong buồng
da (skin chamber) dẫn đến sự ức chế đáng kể giải phóng PGD2
ỏ 2,4 và 5 giò sau khi kích thích, mặc dù không ức chế sự giải
phóng histamine như đã nói ở trên. Tuy nhiên, tác động gây ấn
tượng nhất là làm giảm sự di cư của các tế bào viêm vào trong
buồng da (xem hình 4). Sự thâm nhiễm bạch cầu ưa acid giảm
xuống tới 75% ở 6, 7 và 8 giờ sau khi kích thích; sô" lượng bạch
cầu trung tính cũng giảm xuống ở mức độ tương tự tại các thòi
điểm thời gian tương tự, và các bạch cầu ưa bazơ giảm xuông tới
64% ỏ 6, 7 và 8 giò. Như vậy cetirizine dường như ảnh hưởng
đến sinh bệnh học của phản ứng thì chậm ỏ da. Đặc tính này
không phải là đặc tính chung của tất cả các châ't đổỉ kháng Hj.
Ở những bệnh nhân mẫn cảm phấn hoa, cetirizine lOmg 2
lần/ngày trong vòng 5 ngày đã ức chế đáng kể sự giải phóng
histamine do kháng nguyên vào trong buồng da, như đã nói
trên và đồng thời ức chế sự tập trung bạch cầu ưa acid ở 24 giò,
mặc dù không ức chế sự tập trung ỏ 0,3 hoặc 6 giờ sau kích
thích. Trong một nghiên cứu in vivo khác, cetirizine lOmg 2
lần/ngày trong vòng 4 ngày ức chế tính phản ứng của da và sự
di cư bạch cầu ưa acid do PAF â các liều lượng 40 và 400 ng/ một
vị trí, cũng như sự tập trung bạch cầu ưa acid do kháng nguyên
ở 24 giờ sau khi kích thích. Cetirizine dường như không làm
giảm sự tăng bạch cầu ưa acid trong mũi ỏ những bệnh nhân
viêm mũi dị ứng.
Ketitofen không ngăn cản sự bít tắc đưòng hô hấp, sự tăng
tính phản ứng đường hô hấp và sự giảm bạch cầu trung tính
trong máu sau khi tiêm PAF vào tĩnh mạch ở người, mặc dù nó
có tác động này ồ chuột bạch. Tuy nhiên, nó ngăn cản phản ứng
da do PAF ả ngưòi.
175