Page 168 - Các Thuốc Chống Dị Ứng
P. 168
Sự liên quan về thòi gian giữa sự phong bế Hj và tác động
kháng dị ứng không nhâ't thiết giông nhau. Trong một sô" nghiên
cứu in vitro, các nồng độ chất đốì kháng Hj được sử dụng để
ngăn chặn sự giải phóng histamine từ dưỡng bào và bạch cầu ưa
bazơ cao hơn tới 3 logarit so với nồng độ có thể đạt được in vivo
sau các liều lượng thông thường của các chất đối kháng Hj.
Các cơ chế mà qua đó các chất đối kháng Hj ức chế sự giải
phóng các chất trung gian vẫn chưa được hiểu biết một cách đầy
đủ cho đến nay. Các chất đốỉ kháng H|, ưa lipid, mang điện tích
dương có thể hoà tan vào trong màng tế bào, làm cho màng tế
bào to ra, bền vững hơn và trỏ nên khó có thể cho các dòng ion
đi qua, đặc biệt là dòng Na+ đi vào tế bào, và gây ra sự giải
phóng Ca2+ từ các nguồn lưu trữ trong tế bào. Tuy nhiên, sự
tương quan giữa tính ưa lipid (lipophilicity) của các chất đốỉ
kháng Hj và các đặc tính ức chế ỏ nồng độ thấp và gây độc tế
bào (cytotoxic) ở nồng độ cao là không rõ ràng. Các chất đối
kháng Hj có thể ngăn cản sự sử dụng Ca2+ bên trong tế bào, một
yếu tô" cần thiết cho quá trình giải phóng chất trung gian, ví dụ
bằng ngăn cản sự gắn kết của calci vào các kênh calci, như vậy
ức chế sự xâm nhập Ca2+ vào tế bào, bằng cách ức chế sự giải
phóng calci từ các nguồn dự trữ trong tế bào, bằng cách tương
tác với calmodulin, hoặc bằng cách kích hoạt adenylatecyclase,
như vậy làm tăng mức độ cAMp trong tế bào và ngăn cản sự
huy động Ca2+ trong tế bào. Trong khi hầu hết các nghiên cứu
về cơ chê tác động của các chất đổi kháng Hj trong việc ức chế
sự giải phóng các chất trung gian cho đến nay đều tập trung vào
sự sử dụng Ca2+ (có thể là do tiền lệ trong quá khứ nghiên cứu
vai trò của Ca trong việc làm thay đổi các tác động kháng dị ứng
của các thuốc khác như natri cromoglycate), nhưng đây có vẻ
không phải là cơ chế chính của tác động kháng dị ứng của các
chất đổi kháng Hj.
Ở các bệnh nhân có bệnh dị ứng, hiện nay ngưòi ta sử dụng
4 “mẫu” để nghiên cứu các tác động của các chất dược lý ví dụ
170