Page 164 - Các Thuốc Chống Dị Ứng
P. 164
nhau tuỳ -theo liều lượng, sự hấp thụ, sự phát tán, sự chuyển
hóa và sự loại thải của thuôc, nhưng nồng độ của thuốc trong
mô hiếm khi vượt quá 5 X ÌO ^M. Nhiều chất đốỉ kháng thụ thể
Hị có các chất chuyển hóa hoạt tính, và nồng độ tại chỗ của chất
chuyển hóa hoạt tính cũng liên quan tương tự thậm chí liên
quan nhiều hơn so với nồng độ của chất đối kháng.
Dạng tương tác với thụ thể của các chất đổi kháng nhóm H ị
mới như terfenadine, astemizole và loratadine có thể phức tạp
hơn so với sự gắn kết cạnh tranh đơn giản như đã được mô tả đối
với các chất đối kháng Hj thế hệ đầu. ở các nồng độ thấp, các
chất đốỉ kháng Hj mới gây ra sự chuyển dịch song song sang bên
phải trong đồ thi liều lượng - phản ứng của histamine ở trong
ruột hồi tràng đã phân lập của chuột bạch, đây là biểu hiện của
sự đốĩ kháng cạnh tranh; tại các nồng độ cao hơn, các chất này
cũng làm giảm phản ứng tôi đa của histamine trong mô này và
làm giảm độ dốc của đường đồ thị liều lượng - phản ứng, đây là
tác động đặc trưng hơn của loại ức chế không cạnh tranh. Hơn
nữa, một sô" chất đối kháng Hj thế hệ hai này như astemizole
không dễ dàng bị đẩy ra khỏi vị trí thụ thể và các tác động của
chúng không dễ dàng loại bỏ bằng cách rửa chất đổỉ kháng.
c. Các tác động kháng dị ứng của các chất đối kháng Hj
Trong nhiều nghiên cứu in vivo và in vitro, ngưòi ta đã phát
hiện rằng nhiều chất đối kháng thụ thể Hị có tác động kháng dị
ứng. Có một sô" nghiên cứu, trong đó ngưòi ta đã chứng minh
rằng có tác động kháng dị ứng trực tiếp lên các tế bào của ngưòi
đã được kích thích bằng kháng nguyên in vitro, và trong các tế
bào này tác động kháng dị ứng trực tiếp là sự ức chế giải phóng
một hoặc nhiều chất trung gian. Các nghiên cứu này được tóm
tắt trong bảng 2
166