Page 160 - Các Thuốc Chống Dị Ứng
P. 160
các thụ thể H3 vẫn còn chưa rõ ràng, nhưng người ta cho rằng,
chúng có thể có một sô tác động bảo vệ chống lại sự co thắt phê
quản quá mức.
9
Thông qua các thụ thể không Hi, không H2, không H3 có ái
lực thấp, histamine có thể gây ra sự tăng trưỏng và tác động
như một chất dẫn truyền tín hiệu trong tế bào, ví dụ như trong
việc ủng hộ sự tập hợp tiểu cầu. DPPE (N, N - diethyl-2 [4-
phenylmethylphenoxy] ethan-amine-HCL) là một chất kháng
tăng sản và là chất đối kháng mới sự gán kết histamine trong
hệ này.
Các thuốc kháng histamine (các chất đổì kháng thụ thể Hj
và H2) là loại thuốc được sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới.
Thuốc kháng Hị đầu tiên là hợp chất F929 được phát hiện năm
1937 có thể bảo vệ được chuột bạch chống lại các liều lượng
histamine gây chết ngưòi, phong bế tác động gây co thắt của
histamine lên cơ trơn khí quản và ruột và làm giảm một số triệu
chứng của phản vệ. Trong những năm 1940, các thuốc kháng
histamine hữu ích lâm sàng như phenbenzamine (Antergan),
pyrilamine (Neo-Antergan), diphehydramine và tripelennamine
đã được đưa vào sử dụng. Trong 5 thập niên cuoi đã có nhiều
chất đối kháng Hj xuất hiện. Các thuốc này khác nhau đáng kể
về dược học cơ sồ, dược học lâm sàng và tỷ lệ lợi/nguy cơ
(benefit/ risk ratio). Nhiều chất đốỉ kháng thế hệ đầu đã
không còn được sử dụng trong việc điều trị các bệnh dị ứng, và
các thuốc kháng ĨỈ! mới có tỷ lệ lợi/nguy cơ được cải thiện đang
tiếp tục xuất hiện.
II. Cơ Sỏ PHÂN TỬ CỦA TÁC ĐỘNG
Vị trí, chức nảng, các đồng vận và đổỉ kháng của các thụ thể
histamine được tóm tắt trong bảng 1. Cho đến nay, người ta còn
biết rất ít về cấu trúc và sinh hóa học của các thụ thể histamine
hoặc về bản chất của sự gắn kết và sự ức chế gắn kết histamine.
Các thụ thể đã được xác định về mặt dược lý bằng các tác động
162