Page 148 - Các Thuốc Chống Dị Ứng
P. 148
không kiểm tra lại xem có triệu chứng nhiễm độc hay không,
hoặc không thay đổi liều lượng khi xuất viện. Sự thông tin kém
cỏi giữa các bác sĩ cùng chăm sóc một bệnh nhân có đóng góp
vào nguy cơ nhiễm độc bởi vì một thầy thuốc khác có thể kê đơn
một loại thuốc không phải điều trị hen mà điều trị bệnh khác có
ỏ bệnh nhân hen, nhưng loại thuốc đó lại làm chậm sự đào thải
theophylline, hoặc có thể cho bệnh nhân ngừng dùng loại thuốc
này mà không thông báo cho bác sĩ kẽ theophylline biết; do vậy
không có sự điều chỉnh liều lượng theophylline một cách thích hợp.
Mặc dù có nguy cơ gây nhiễm độc và luôn có lo ngại về khả
năng có sai lầm trong liều lượng ỏ một sô" cơ sồ y tế, nhưng một
nghiên cứu đã cho thấy rằng tỷ lệ mắc nhiễm độc nặng do
theophylline là rất thấp. Trong sô' 225.000 lần kê đơn
theophylline cho 36.000 bệnh nhân hen, chỉ có 2 bệnh nhân (1
trẻ em và 1 người lớn) là xuất hiện co giật do theophylline. Như
vậy nhiễm độc do sử dụng theophylline có thể tránh được. Để
đảm bảo sự an toàn tối ưu khi sử dụng theophylline cần phải
tuân thủ các bước sau đây :
- Luôn luôn bắt đầu bằng một liều thấp và tăng liều lượng
lên một cách chậm chạp (từ từ). Chỉ duy trì các liều lượng nếu
cơ thể dung nạp tốt.
- Luôn luôn điều chỉnh liều lượng cuổì cùng bằng cách đo
nồng độ theophylline trong huyết thanh.
- Hướng dẫn cho bệnh nhân luôn luôn tuân thủ một liều
lượng duy nhất cho đến khi đo nồng độ thuốỉc kiểm tra, nếu có
bất kỳ gợi ý nào về tác dụng phụ của thuốc, đặc biệt là đau đầu
kéo dài, hồi hộp lo lắng, trạng thái kích thích, tăng nhịp tim,
buồn nôn và nôn.
- Giảm 1/2 liều lượng khi có sốt (t° > 101°) kéo dài hơn 24 giờ.
- Giảm liều duy trì xuống 1/3 khi có sử dụng erythromycin
hoặc ciproflaxaxin hoặc giảm 1/2 liều khi có sử dụng cimetidine,
troleandomycin và uống thuốc tránh thai (nếu thuốc thánh thai
150