Page 91 - Biến Chứng Bệnh Đái Tháo Đường
P. 91
Hạ glucose máu cũng cần tránh để bảo vệ não và phòng
ngừa các rối loạn ý thức. Do các dạng nảng lượng khác hoặc là
có khả năng hạn chế (thể ceton) hoặc không đi qua được hàng
rào máu não (các acid béo tự do), do đó glucose có thể xem là
nguổn năng lượng duy nhất cho não, ngoại trừ một số trường
hợp đói kéo dài, khi đó thể ceton hay các chất khác có thể được
sử dụng. Não không thể dự trữ hay sản xuất glucose do đó
phụ thuộc vào glucose máu để duy trì hoạt động chức năng và
sự tồn tại. Ở nồng độ glucose máu sinh lý, sự phosphoryl hóa
glucose ỏ mức độ đủ để sử dụng cho các nhu cầu của não. Tuy
nhiên, do chênh lệch nồng độ là động lực của sự vận chuyển
glucose qua hàng rào máu não nên lượng glucose đi qua hàng
rào máu não sẽ bị hạn chế khi nồng độ glucose máu dưới mức
bình thường.
Nồng độ glucose máu giảm sẽ xảy ra các đáp ứng theo thứ
tự. Khi glucose máu giảm xuống l,lmmoA (20mg/dL) có thể
làm giảm lượng glucose qua hàng rào máu não, ức chế bài tiết
insulin, và làm khỏi động sự giải phóng ra hormon điều hoà
ngược ỏ mức glucose máu khoảng 4mmol/l. Trong điều kiện
sinh lý bình thưdng thì đáp ứng này ngăn cản sự giảm glucose
máu xuống thấp hơn nữa và duy trì glucose máu ỏ mức bình
thường. Khi glucose máu giảm xuống còn 1,7 - 3,4mmol/l sẽ
phát động các dấu hiệu thần kinh tự động báo hiệu (như đói,
lo sợ, hoảng hốt, hồi hộp đánh trống ngực, vã mồ hôi, có thể
hơi sốt) làm cho bệnh nhân có các hành động phòng tránh như
ăn và ngăn ngừa được hạ glucose máu. Tuy nhiên, biểu hiện
của hạ glucose máu rất khác nhau ở mỗi cá thể. Khi glucose
máu giảm xuống dưới 3mmolA thì xuất hiện ruồi bay trước
mất, lẫn lộn, khó tập trung) đồng thòi thấy có các biểu hiện
thay đổi trên điện não đồ và rối loạn nhận thức. Khi glucose
máu giảm xuống dưới 2,5mmol/l thì xuất hiện dấu hiệu ngủ gà
và rối loạn hành vi. Nếu như tiếp tục giảm có thể gây hôn mê,
khi giảm dưới l^mmol/l, và kéo dài có thể gây co giật, tổn
thương thần kinh không hồi phục và cuối cùng dẫn đến tử
9 3