Page 181 - Bí Quyết Thi Đậu THPT Quooac Gia Môn Văn
P. 181
đi xây dựng cho vùng đâh Tây Bắc đẹp giàu, họ là những anh bộ đội, thanh niên
xung phong, những công nhân cầu đường kế cả tác giả. Tất cả cùng đến với Tây
Bấc, ra sức xây dựng cho Tây Bắc. Phải chăng, lòng con sông Đà có cảm nhận
được như thế là thể hiện tình yêu cộng đồng, tình yêu quê hương non nước.
đ. Vẻ đẹp của cảnh sông:
* Vẻ đẹp tĩnh lặng: Hình ảnh: “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời
Lý, dời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Với nét bút
so sánh, nhân hóa, tác giả mượn bước đi của thời gian, chiều dài của lịch sử từ
các triều đại Lí, Trần, Lê, quãng sông ấy vẫn “lặng tờ”, im lìm, tĩnh tại và cho
đến hôm nay quãng sông này cũng mang dáng vẻ đìu hiu, hoang vắng, lặng tờ
như thế. Chứng tỏ, bước đi của thời gian có biến đổi, đổi thay nhưng vẻ đẹp của
không gian vẫn không hề thay đổi là nét miêu tả độc đáo của Nguyễn Tuân.
* Vẻ dẹp sinh động: Với hình ảnh: “Thuyền tôi trôi qua một nương ngô, nhú
lên mấy lá ngô non dầu mùa. Mà tịnh không một bóng người, cỏ gianh đồi núi
đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi dầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương
đêm”. Với đoạn văn miêu tả thật tinh tế, giàu hình ảnh sông động, đưa người
đọc hình dung cảnh vật sông Đà tràn đầy sức sông trước vẻ đẹp của thiên nhiên
và thấp thoáng hình bóng con người. Chứng tỏ Tây Bắc đã hồi sinh, Tây Bắc đã
thay da đổi thịt, ươm mầm cho sự sông. Tất cả xuất phát từ tình yêu lao động
cần mẫn của con người, bàn tay của con người. Quả thật: “Bàn tay ta làm nên tất
cả. Có sức người sỏi đá cũng thành cơm”. (Hoàng Trung Thông)
Mở rộng: Có ai ngờ rằng, chính mảnh đất này là chiến trường năm nào,
từng chôn bao xác quân thù cướp nước (Pháp), nơi đây cũng là “Xứ thiêng liêng
rừng núi dã anh hùng” nhưng với tình yêu lao động cần cù, chịu thương, chịu
khó của người dân Tây Bắc cùng sự góp sức của nhân dân cả nước, Tây Bắc đã
hồi sinh, Tây Bắc đã thay da đổi thịt, Tây Bắc đã nở hoa, trời Tây Bắc mỗi ngày
mỗi sáng là thể hiện tinh thần yêu nước nồng nàn của nhân dân ta trong xây
dựng, bảo vệ đất nước.
2. Vẻ dẹp 2: Con sông Đà hùng vĩ, hung bạo đáng sỢ.
a. Tăm địa độc ác của con Sông Dà: Ca dao Tây Bắc thường nói: “Đường
lên Mường Lễ bao xa. Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh” đưa chúng ta hình
dung giữa lòng con sông Đà lắm thác nhiều ghềnh, là chướng ngại vật tạo sự
khó khăn, làm cản trở sự giao lưu của người dân Tây Bắc. Nói đến lòng con sông
Đà có những tầng đá xếp chồng lên nhau như “Trùng vi thạch trận” có thể xé
nát thuyền, có khoảng sông hẹp lại như cái vếu hầu cùng những cái hút nước
như giếng bê tông, là những lực cản thật nguy lúóm đôi với con người, “Có
những thuyền đã bị cái hút, nó hút xuống, thuyền trồng cây chuối ngược rồi vụt
biến đi, bị dim và đi ngầm dưới lòng sông đến mười phút sau mới thấy tan xác ở
khuỷu sông dưới”. Với đoạn văn miêu tả đầy kịch tính kết hợp hình ảnh nhân
180