Page 65 - Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam
P. 65

kiềm  chế  thủ  công  vào  trong  khuôn  khổ  của  nó,
   không  cho  thủ  công  phát  triển  vì  nó  sẽ  lôi  cuốn
   nông  dân  khỏi  làng,  tạo  thánh  những  trung  tâm
   điều khiển  lại  nông thôn  như tình  hình  ở châu Âu.
   Mặt  khác,  chính  quyền  vua  chúa  chỉ  xem  thủ  công
   nghiệp  như một  hoạt động cung  cấp  vật phẩm  tiêu
   xái và  đổi  lấy hảng hóa nước ngoài.  Thương nghiệp
   này  vì  do  quan  lại  quản  lý  nên  không  thể  có  diện
   mạo  độc  lập,  và  bị  bóp  nặn  kiệt  sức.  Vào  thế  kỉ
   XVIII,  họ  Trịnh  quy  định  trước  số  chi  rồi  sau  mới
   định  số  thu  cho  dân.  Phan  Huy  Chú  (thế  kỷ  XIX)
   nhận  xét  trong  "Lịch  triều  hiến  chương loại  chí":
        "Vì  trưng thu  quá  mức,  dân  kiệt cả  vật lực mà
    không thể nộp  thuế,  đến nỗi  thành ra  bẩn  cùng mà
   phải bỏ nghề nghiệp.  Có người vì  thuế sơn sống mà
   phải chặt cấy sơn,  có người  vì  thuế vải lụa mà phải
   phá  khung cửi.  Cũng  có  người  vì  phải  nộp  gỗ  cây
    mà phải bỏ rìu  búa,  vì  thu  cá  tôm  mà phải xé lưới,
    vì phải  nộp  m ật  mía  mà  không  dám  trồng mía,  vì
   phải nộp  bông chè  mà  bỏ  hoang  vườn  tược".
        Kết  quả  của  chính  sách  ức  thương  là:
        - Văn hóa Việt Nam xưa không phải là văn hóa
   thành  thị,  không  có  hiện  tượng  thành  thị  chỉ  huy
   nông thôn,  chuyển bộ mặt kinh tế tự túc nông thôn
    sang  kinh  tế  hàng  hóa  của  thành  thị  để  đổi  mới
   kinh tế đất nước. Ngược lại, chính thành thị bị nông
    thôn  hóa.  Đô  thị  lớn  nhất  như  Thăng  Long  chỉ  là
    cửa hàng bán các sản phẩm nông thôn. Từng phường
    chỉ  là  cái  đuôi  từng  làng  nghề  với  Thành  hoàng
    láng,  và  gắn  chặt  chẽ  với  làng.


                                                           67
   60   61   62   63   64   65   66   67   68   69   70