Page 68 - Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam
P. 68

không ăn cỏ); tinh thẩn đoàn kết (Một cây làm chẳng
       nên  non; Ba  cây chụm  lại nên  hòn  núi cao);  sự hòa
       thuận  trong  gia  đình  (Thuận  vợ,  thuận  chồng  tắt
       bê đông cũng cạn); lòng thương người (Thương người
       như  thể thương  thân);  thái  độ  coi  trọng  con  người
       không phân  biệt tải  sản  (Án  m ầy là  ai? Án  m ày là
       ta;  Đói  cơm  rách  áo  hóa  ra  ăn  mày)...  Cái  minh
       triết ấy đã khiến cho nhân dân Việt Nam theo Đảng
       và  CNXH  dễ  dàng,  và  hi  sinh  cho  nó  như  một  điều
       tự  nhiên.  Nó  góp  phần  tạo  nên  minh  triết  xã  hội,
       và  không  phải  bắt  nguồn  tử  tôn  ty  luận  của  Nho
       giáo.  Nó tạo thành nhân cách luận của dân tộc. Một
       người  theo  Nho  giáo  chỉ  là  theo  trong  văn  chương.
       Theo  cá  nhân  luận  phương  Tây  như  thế  hệ  chúng
       tôi,  cũng chỉ lá theo trong công việc.  Còn trong tâm
       thức, họ đều là những người thiết tha với minh triết
       dân  gian.
            Thực tình tôi không thấy ai chống lại minh triết
       này.  Điều  lạ  lùng  là  ngay  những  nhà  văn  của  Tự
       lực văn đoàn cũng không khác. N hất Linh viết  "Nho
       Phong" ca  ngợi  lễ  giáo  xưa.  Khái  Hưng  viết  "Nửa
       chừng xuân" ca  ngợi  lòng  tận  tụy  cho  gia  đình  của
       người  phụ  nữ.  Và  mọi  người  khác,  chê  chỗ  náy  lại
       khen  chô khác và  minh triết dân gian vẫn vượt lên
       khỏi  mọi  phê  phán  của  họ.

            Cho nên ta không ngạc nhiên khi suốt thời gian
       quân  chủ  có  mâu  thuẫn  giữa  Nho  giáo  với  minh
       triết  dân  gian,  có  sự  điều  hòa  nhưng  không  có  sự
       vượt  gộp.  Nguyễn  Trãi  đã  thử  làm  trong  yêu  cầu
        "Dám  mong  Bệ  hạ  rủ  lòng  thương  và  chăn  nuôi


       70
   63   64   65   66   67   68   69   70   71   72   73