Page 60 - Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam
P. 60
Một người Việt Nam sinh ra đã tiếp thu nó trong
tiếng hát ru của mẹ, lớn lên tham gia trong các trò
chơi, các nghi lễ, các cuộc đua tài, các buổi trao đổi
tâm tình với những người bạn khác giới. Không phải
văn hóa Triều đình làm cơ sở của văn hóa dân tộc,
má chính là văn hóa dân gian. Một nhà Nho khi
viết bằng chữ Nôm thường theo văn hóa dân gian
hơn là văn hóa bác học, và khi làm thế anh ta nhiều
khi phê phán những giáo lý phong kiến về tính chất
hẹp của nó. Trái lại, không có nhà Nho nào coi khinh
hay chống lại văn hóa dân gian. Một người Việt
Nam, do đó, có hai văn hóa cùng tồn tại trong tư
tưởng mình. Do tình trạng này, diễn ra một hiện
tượng thú vị là nhà Nho sử dụng những hình thức
quen thuộc nhất của văn chương thi cử để chống
lại hệ tư tưởng Nho giáo, về phú, ta có Ngã Ba
Hạc phú của Nguyễn Bá Lân, Tài tử đa cùng phú
của Cao Bá Quát, về thơ Đường ta có thơ Đường
Hồ Xuân Hương, về câu đối ta có câu đối Nguyễn
Khuyến, về văn sách ta có văn sách của Lê Quý
Đôn, về văn tế, ta có văn tế sống. Còn truyện Nôm,
chèo thì gần như toàn bộ là theo tư tưởng bình dân.
Người xưa dùng danh từ "Nôm na mách qué" để
chỉ văn học Nôm không phải lá không có cơ sở. Neu
như văn học chữ Hán là nghiêm chỉnh, trang trọng
thì văn học Nôm lại phê phán, giễu cợt, vang dội
tiếng cười hồn nhiên, đả phá những khuôn vàng
thước ngọc của Nho giáo. Tức là Nho giáo bị khúc
xạ qua lăng kính tâm thức dân gian.
62