Page 371 - Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam
P. 371

Như  vậy  chỉ  trong  ba  tháng  xuân  ở  người  Việt
   đã  có  59  hội  làng.
       Giai đoạn có nhiều hội thứ hai là vào tháng bảy
   và tháng tám.  Tháng bảy người Việt có 4 hội, tháng
   tám  có  9  hội.
       Riêng hai  giai  đoạn  này  đã  chiếm  72  hội  trong
   số  83  hội  cả  năm  của  công  trình,  ơ   đồng bào  miền
   núi,  hội  xếp  theo  mùa,  vụ  thì  trong  số  17  hội,  chỉ
   có  một  hội  vào  tháng  bảy  là  hội  Mbăng  Katê  của
   người  Chăm  theo  Bà  la  môn  còn  tất  cả  là  sau  vụ
   đông  (8  hội  trong  3  tháng  đầu,  8  hội  sau  mùa  thu
   hoạch  và  vào  tháng  12).
       Những hội  của  người  Việt  nằm  ngoài  thời  gian
   sau  vụ  mùa  vá  vụ  chiêm  phải  có  lí  do  riêng:  Hoặc
   là  gắn  liền  với  tục  lệ  địa  phương như  hội  cầu  mùa
   Bảo  Ninh  ở  Xã  Bảo  Ninh,  Quảng  Bình  thờ  Cá  Voi
   tổ  chức váo  ngày  14-16  tháng 4,  lễ  vía Bà  Chúa Xứ
   ở  Vĩnh  Tế,  An  Giang  nguồn  gốc  không  rõ,  lễ  hội
   Thánh  Gióng ở  Phù  Đổng,  Hà  Nội.  Nhưng vẫn  còn
   dấu vết nghi lễ nông nghiệp  như lễ rước nước trong
   lễ  hội  Thánh Gióng,  trong hội  Đền  Chèm từ  14 đến
   17  tháng  năm  ở  Thụy  Phương,  Há  Nội  và  tục  cầu
   mùa trong hội Đua  thuyền làng Đức  Bác tỉnh Vĩnh
   Phú  ngày  10  tháng  sáu.
       -  Một  hội  lễ  nông  nghiệp  thế  náo  cũng  cầu  xin
   thần  linh  giúp  cho  được  mùa.  Trong  óc  người  xưa,
   cây  lúa  trổ  hạt  và  người  đàn  bà  sinh  con  là  một.
   Nếu  ta  để  ý  thì  thấy  khi  làm  lúa  nương  trên  đồi,
   đàn  ông đàn  bà  đứng giáp  mặt nhau,  đàn ông chọc
   lỗ  đàn  bá  bỏ  hạt  và  trồng  lúa  dưới  chân  đồi  đi  lùi



                                                         373
   366   367   368   369   370   371   372   373   374   375   376