Page 91 - AllbertEstens
P. 91
sự lệch của tia sáng trong trường hợp hấp dẫn và sự dịch
chuyên điểm cận nhật của Sao Thủy;
b) Ngủ Đông (1920-1960)’. Trong giai đoạn này chỉ có ít thí
nghiệm được tiến hành để kiểm tra lý thuyết tương đốỉ rộng,
đồng thời bản thân lý thuyết thì dường như đã trở thành cằn cỗi
và trì trệ, "bị bỏ lại trong vùng nước tù của vật lý và thiên văn”.
(Việc nghiên cứu vể vật chất và các hiện tượng điện từ đã phát
triển theo một hướng hoàn toàn khác do sự xuất hiện của cơ học
lượng tử);
c) Hoàng Kim (1960-1980): Nhờ những khám phá thiên
văn (quasar, punxa, bức xạ phông vũ trụ) và những thí nghiệm
mới được xây dựng, đã xuất hiện những nỗ lực có hệ thốhg toàn
thế giói nhằm tìm hiểu các tiên đoán có thể quan sát được của lý
thuyết tương đối rộng và so sánh nó với các lý thuyết khác về
hấp dẫn. Giai đoạn này bắt đầu với thí nghiệm xác nhận sự dịch
chuyển tần sô' của ánh sáng do hấp dẫn và kết thúc với kết quả
quan sát sự giảm chu kỳ quỹ đạo (orbital period) của hệ punxa
đôi với tốc độ phù hợp với tiên đoán về năng lượng bị mất do
phát sóng hấp dẫn; các kết quả này đã củng cố niềm tin về sự
đúng đắn của lý thuyết tương đốỉ rộng và gạt bỏ đi hầu hết các
lý thuyết cạnh tranh với nó;
d) Thời cơ (1980-): Kiểm tra những hiệu ứng cực kỳ nhỏ và
khó đánh giá, có khi cần phải phát triển những công nghệ mới,
để xuất những cách kiểm tra mới dựa trên những ý tưởng lý
thuyết mới. Đây cũng là một giai đoạn mới của việc sử dụng hệ
punxa đôi trong các thí nghiệm kiểm tra.
Trong một công trình tổng quan gần đây, Shapiro [2] đã
trình bày việc kiểm tra lý thuyết tương đối rộng trong 8 mục:
a) Nguyên lý tương đương;
b) Sự dịch chuyển về phía đỏ của các vạch phổ;
89