Page 55 - AllbertEstens
P. 55
ông mặc dầu bản thân Einstein lại xem nển tảng của nó là tính
tương đối tổng quát, tức là sự mở rộng tính tương đối hẹp - là
một tính đốỉ xứng oủa tự nhiên - cho chuyển động không đều
bất kỷ"**.
Trong hai năm sau đó, Einstein đã có một loạt nghiên cứu
về các phương trình trưòng đối vối tenxơ mêtric. Ngày 18 tháng
Mười Một năm 1915, mặc dầu chưa đi đến dạng cuối cùng của lý
thuyết, ông đã tính được đúng độ dịch chuyển điểm cận nhất
của Sao Thủy (43” mỗi thế kỷ) mà lý thuyết của Newton phải
chịu thất bại. Ong cũng đã chứng minh rằng độ lệch của tia
sáng do ảnh hưồng trường hấp dẫn của Mặt Trời trong công
trình năm 1911 bị sai một nhân sô" 2, giá trị đúng là 1"74 được
xác nhận trong các quan sát nhật thực toàn phần năm 1919.
Dạng hoàn chỉnh của lý thuyết hấp dẫn của Einstein (lý
thuyết tương đốỉ rộng) đã được hoàn thành vào ngày 25 tháng
Mưồi Một nãm 1915 và công bô" trên Kỷ yếu của Viện Hàn lâm
Khoa học Phổ (4 trang) trong cùng năm, bản được trình bày có
giải thích cặn kẽ "Những nền tảng của lý thuyết tương đối rộng"
đăng trên "Annalen der Physik" (54 trang) năm 1916. Bản sau
này thường được dẫn chứng như là bản gốc và được sử dụng để
dịch sang các thứ tiếng khác. Những tính toán về độ dịch
chuyển điểm cận nhật của Sao Thủy và độ lệch của tia sáng do
*) Einstein cho biết ông đã chịu ảnh hưởng của E. Mach khi xây dụng lý thuyết tương
'đối rộng, cụ thể là nguyên lý Mach (tên gọi này do Einstein đưa ra năm 1918) nói rằng
quán tính cúa bất kỳ mảnh vật chất nào cũng là do tương tác hấp dẫn của nó với phần
còn lại cúa vũ trụ. Thực ra thì nguyên lý tương đương của Einstein nằm ở giữa Mach
và Newton khi nói về nguồn gốc của quán tính. Theo Newton, lực quán tính, thí dụ
như lực ly tâm, xuấí hiện ỉừ sự gia tốc đối với "không gian tuyệt đối", còn theo Mach
thì là từ sự gia tốc đối với khối lượng của các thiên thể [8].
53