Page 51 - AllbertEstens
P. 51
Lý thuyết tương đối (hẹp) của Einstein dã dẫn đên những
quan niệm hoàn toàn mối về không gian và thời gian và sự gắn
bó không tách rời giữa chúng. Thay cho không gian và thời gian,
bây giờ ta nói không-thời gian. Những điều tuyệt đối (không
thay đổi dù người quan sát ở chỗ nào) như sự đồng thời của hai
biến cô, chiều dài của một thanh vật chất, khoảng thời gian trôi
qua, khối lượng của một vật thể chỉ là "tương đối", tất cả phụ
thuộc vào người quan sát (gắn vói một hệ quy chiếu quán tính)
là đứng yên hay chuyển động (với tốc độ như thế nào).
Nói riêng, như đã được chứng minh trong bài báo bổ sung
về lý thuyết tương đôì (bài báo thứ tư của năm 1905), như là
một hệ quả của các nguyên lý của lý thuyết tương đốì, có sự
tương đương (và do đó sự biến đổi qua lại) giữa năng lượng E và
khối lượng m của một vật: E = mc2. Công thức này đã là cơ sở
cho sự ra đời của các nhà máy điện nguyên tử - một giai đoạn
quá độ không thể thiếu được từ các nguồn năng lượng hoá thạch
(dầu, khí, than) sang một nguồn năng lượng sạch được cung cấp
với quy mô lớn (nhiệt hạch) - và cũng là cơ sỏ của vũ khí hạt
nhân đã trở thành một yếu tô" "tối hạn" trong các quan hệ quốc
tế ngày nay.
Với sự xuất hiện của lý thuyết tương đối, các khái niệm
không gian và thời gian đã hoàn toàn thay đổi. Không một nhà
triết học nào ngày nay khi nói đến không gian và thời gian lại
không bàn đến sự thay đổi đó. Bài của nhà triết học Hans
Reichenbach "Ý nghĩa triết học của lý thuyết tương đối" giói
thiệu tóm lược ở dưới đây sẽ giúp chúng ta hiểu sâu hơn vể vấn
đề này.
Như đã nói ỏ trên, trong ba khám phá của Einstein năm
1905, lý thuyết lượng tử ánh sáng được chính ông xem là "rất
cách mạng". Đối với lý thuyết tương đối hẹp, theo sự phân tích
của Stachel [4], ông không bao giờ đánh giá nó (giải quyết sự
49