Page 47 - AllbertEstens
P. 47
Foucault và H. Fizeau năm 1849 lại cho thấy ánh sáng bị
im đi như đã được tiên đoán bởi lý thuyết sóng ánh sáng của
Huygens - đối thủ của lý thuyết hạt. Vân đề đặt ra là làm
ỉp lý thuyết này với bức tranh thế giối của Newton. Một cách
nhiên, người ta nghĩ đến sự tồn tại của một môi trường trong
sóng ánh sáng có thể lan truyền mà không có vật chất thông
íờng cân lường được (ponderable matter). Môi trưòng giả định
được gọi là ête. Ête là hiện thân của không gian tuyệt đối
I Newton. Nhưng mối quan hệ giữa ête và vật chất cân lường
Ịc là như thế nào? Nó có bị kéo theo (toàn bộ hay một phần)
vật chất chuyển động hay mãi mãi đứng yên? Người ta đã
íy rằng không thể nào dung hòa các hệ quả của bất kỳ giả
ết nào trong sô' đó với các kết quả thực nghiệm về quang học
I các vật chuyển động. Đó là mối bận tâm của nhiều nhà vật
;rong phần ba cuối của thế kỷ XIX.
Ta lại nhớ lại vào năm 1865, Maxwell đã chỉ ra sự thống
ất giữa ánh sáng và các hiện tượng điện và từ và đã thiết lập
3c lý thuyết điện từ hoàn chỉnh bao gồm cả quang học (còn
là điện động lực học cổ điển) vói 4 phương trình hết sức gọn
3, khiến Boltzmann đã phải thốt lên: "Đây là những ký hiệu
I Thượng đêV\ Và vấn đề cấp bách là dung hòa lý thuyết này
ì các vật chuyển động với cơ học (động học và động lực học)
1 Newton.
Vào cuối thê kỷ XIX, nhà vật lý nổi tiếng Hà Lan Hendrik
toon Lorentz dường như đã vượt qua được tất cả các khó khàn
trên với cách giải thích của ông về các phương trình Maxwell,
lg giả thiết là ête hoàn toàn đứng yên, không có sự kéo theo
0 đối với nó. Hệ quy chiếu ête đứng yên được lấy làm hệ quán
h ưu tiên, chuyển động qua nó là có thể phát hiện được. Tuy
iên, không thể phát hiện được chuyển động tịnh tiến của Trái
't qua ête bằng các hiệu ứng quang, điện hay từ nếu như, theo
45