Page 45 - AllbertEstens
P. 45
đầu khám phá này từ việc so sánh entrôpi của một khí lý tưỏng
chứa trong một thể tích đã cho với entrôpi của bức xạ chứa
trong một cái hốc. Sự phụ thuộc kiểu hàm lôga của entrôpi của
chất khí vào thể tích có thể giải thích theo mối quan hệ giữa
entrôpi và xác suất thống kê như Boltzmann đã chỉ ra. Dựa trên
nhận xét entrôpi của ánh sáng trong hốc biến thiên theo thể
tích hôc cũng đúng như entrôpi của chất khí, Einstein đã đi đến
ý tưởng là ánh sáng cũng phải bao gồm các hạt mà ông gọi là
lượng tử ánh sáng. Và ông đã nói rõ rằng ý tưởng này chỉ có tính
chất trực cảm chứ không phải một kết luận có lôgic chặt chẽ.
Rồi trong mục sau đó trong bài báo lịch sử năm 1905, ông mới
đề cập hiệu ứng quang điện và xét khả năng giải thích hiệu ứng
này dựa trên lượng tử ánh sáng.
Lúc đầu không phải ai cũng châp nhận lý thuyết lượng tử
ánh sáng. Chính Planck lại rất hoài nghi đề xuất của Einstein.
Theo ông viết nảm 1910, nếu lý thuyết này được chap nhận thì
có nghĩa "lý thuyết ánh sáng sẽ bị đẩy lùi hàng thế kỷ", quay trỏ
lại cái thời kỳ mà những người kế tục Newton và Huygens
tranh cãi về tính hạt hay tính sóng của ánh sáng. Chỉ đến năm
1923, khi Arthur Compton đo được xung lượng của photon, một
đặc trưng hạt, thì lúc đó nó mới hoàn toàn chiến thắng. Khi
tặng giải Nobel về vật lý năm 1921 cho Einstein, những người
xét giải đã nhâ'n mạnh rằng giải được tặng là do các khám phá
về hiệu ứng quang điện. Bản thân Einstein, trong một bức thư
gửi người bạn Conrad Habicht trong thời gian chờ công bô" các
công trình, đã đánh giá công trình này của ông là "rất cách
mạng" trong sô" các công trình năm 1905.
Quan niệm về lượng tử ánh sáng thực ra lại đặt ra những
vấn đề nan giải. Cái gọi là "tần sô"" hay "bưóc sóng" sẽ có nghĩa
như thế nào khi ánh sáng được hiểu là một chùm photon ?
Không có đại lượng này, ta sẽ không xác định được năng lượng
43