Page 41 - AllbertEstens
P. 41
ngờ về cách giải thích thống kê nhiệt động học của Boltzmann.
Thê giới nguyên tử rõ ràng là một thực tại không thể phủ định
được. Bản thân Ostwald năm 1908 đã thẳng thắn công nhận:
"Bây giờ tôi đã tin rằng gần đây chúng ta đã có những chứng cớ
thực nghiệm có tính thuyết phục về bản chất gián đoạn hay bản
chất hạt của vật chất mà giả thuyết nguyên tử đã mất công đi
tìm hàng trăm hàng nghìn năm nay mà không thấy. Sự tách
riêng và đếm các ÌÔTÍ chất khí..., sự phù hợp của chuyển động
Brown vói các yêu cầu của lý thuyết động học... đã xác nhận
nhà khoa học cẩn trọng nhất hiện nay đang nói về sự chứng
minh bằng thực nghiệm lý thuyết nguyên tử của vật chất. Như
vậy, giả thuyết nguyên tử đã được nâng lên vị trí của một lý
thuyết hoàn toàn có cơ sở về mặt khoa học" [3].
Do tầm quan trọng thực tiễn (trong các lĩnh vực như
nghiên cứu vể các hạt sol khí, các tính chất của sữa, vật lý bán
dẫn), các công trình của Einstein về kích thưóc phân tử và
chuyển động Brown là các công trình đã được dẫn chứng nhiều
nhâ't trong sô" các công trình của Năm Kỳ diệu 1905. Nhưng
chúng đã ít được nhắc đến do bị che lấp bởi những ánh hào
quang quá rực rỡ của các công trình về lý thuyết lượng tử ánh
sáng và lý thuyết tương đối [4].
Lý thuyết về lượng tử ánh sáng (về sau, nảm 1926,
"lượng tử ánh sáng1' được G. N. Lewis gọi là photon) là cái cột
mốc lớn thứ hai trong sự phát triển của lỷ thuyết lượng tử tiếp
theo công trình của Max Planck năm 1900 về khái niệm cách
mạng "lượng tử” (xem Phụ lục Al ở cuối sách). Nó là bài báo
đầu tiên của Einstein (hoàn thành ngày 17 tháng Ba) trong
Năm Kỳ diệu 1905. Bài báo mang nhan đề "Về một quan điểm
trực cảm về sự sản sinh và biến đổi ánh sáng", từ ’’trực cảm”
(heuristic), theo Holton và Roller [5], có thể hiểu là "thúc đẩy
nghiên cứu, hỗ trợ phát triển một sơ đồ khái niệm, không nhất
39