Page 304 - AllbertEstens
P. 304
nhấn của H. Yukawa năm 1934 cho đến lý thuyết cd không
Abel của C. N. Yang và R. Mills năm 1954, giả thuyết về các hạt
quark có điện tích phân sô" của M. Gell-Mann và G. Zweig năm
1964, và cuối cùng là việc phát hiện bằng thực nghiệm các hạt
này (J. I. Friedman, H. w. Kendall, R. Taylor) và các hạt lực
của nó (gluon) trong những năm 1970 khẳng định sự đúng đắn
của lý thuyết được xây dựng: sắc động lực học lượng tử (QCD).
Bộ phận thứ ba của lý thuyết trường lượng tử dành cho
tương tác yếu cũng đã được xây dựng hoàn chỉnh đồng thời hợp
nhất (hay thống nhất) cả tương tác điện từ và ta có lý thuyết
điện [từ] - yếu (electroweak theory), đôi khi còn gọi là vị động
lực học lượng tử (QFD). Sự phát triển của lý thuyết này cũng có
một lịch sử lâu dài và phức tạp cùng với sự nhận thức chậm
chạp về chính sự tồn tại của tương tác yếu mà từ biểu hiện được
biết đầu tiên là sự phân rã bêta (sự biến đổi tự phát một hạt
nhân thành một hạt nhân lân cận kèm theo một electron hay
♦ ♦ • • *
pozitron được phát ra) trong hiện tượng phóng xạ được H.
Becquerel khám phá cho đến biểu hiện thứ hai là sự phân rã
của mezon muy phải mất nửa thê kỷ (1896 - 1947). Sau giả
thuyết của w. Pauli về hạt nơtrino (1930), 'lý thuyết ưốm thử"
cho sự phân rã bêta của E. Fermi (1934) và nhiều khám phá
khác nữa, trong đó có khám phá gây xúc động mạnh mẽ nhất là
tiên đoán của T. D. Lee và C. N. Yang năm 1956 về sự vi phạm
m) Năm 1918, H. Weyl đã bắt đầu xây dựng lý thuyết cỡ (gauge theory, cũng được dịch
là "lý thuyết chuẩn") nhằm mở rộng lý thuyết tương đối rộng sao cho có thể mô tá
được các hiện tượng hấp dẫn và điện từ trong một khung hình học thống nhất. Trong
công trình này lần đẳu tiên đã xuất hiện các từ "phép biến đổi cỡ" và "bất biến cỡ",
"cỡ" tiếng Anh là "gauge" vốn là từ tiếng Đức "Eich". Do tính đối xúng cỡ, điên
trường và lừ trường cổ thể dược biểu thị bằng những hàm thế có thể biến đổi theo một
cách nào đó mà không làm các tnrờng này thay đổi. Cách biến đổi đơn giản nhất là
cộng thêm một hằng số vào điện thế. Điều này có nghĩa là điện thế tại mộl điểm
không có ý nghĩa gì mà hiệu các điện thế ở hai điểm khác nhau mới là quan trọng.
N hờ đặc tính này của điện trường, chim chóc có thể an toàn đậu trên các đường đây tải
điện.
302