Page 307 - AllbertEstens
P. 307
sử của chúng là như th ế nào, đều được quan sát là có một
cách chính xác cùng các tính chất. Điều này là hệ quả của sự
kiện cả hai electron đểu là những kích thích của cùng một
trường electron cơ sở. Trường electron do đó chính là thực
tại sơ cấp. Lôgic này cũng áp dụng cho photon, quark và cả
các vật thể phức hợp như hạt nhân, nguyên tử, phân tử.
Sự tồn tại những lớp hạt không thể phân biệt được là điểu
kiện tiên quyết lôgic của cái mới thứ hai của lý thuyết
trường lượng tử: mỗi lớp hạt được gán một th ố n g kê lương
tử độc nhất. Lý thuyết trường lượng tử không chỉ giải thích
sự tồn tại của các hạt không thể phân biệt được và tính bất
biến của các tương tác của chúng khi trao đổi, mà còn chỉ ra
những ràng buộc đối với tính đối xứng, của các nghiệm. Đối
với các bozon, chỉ có các hàm sóng đối xứng, và đối với các
fecmion, chỉ có các hàm sóng phản đốì xứng, là có tính vật
lý. Theo định lý spin - thông kê, các hạt có spin nguyên là
bozon, còn các hạt spin bán nguyên là fecmion. Nói riêng,
đặc tính fecmion của electron là cơ sở của sự bền vững của
vật chất và cấu trúc của Bảng tuần hoàn.
Sự tồn tại các phản hạt. Điểu này đã được Dirac chỉ ra khi
ông giải thích phương trình sóng tương đốĩ tính, song cách
giải thích này đã trỏ thành lạc hậu và được thay bằng cách
giải thích theo lý thuyết trường lượng tử áp dụng cả cho các
bozon, theo đó hàm sóng của Dirac được giải thích lại như là
một toán tử phụ thuộc vị trí (và thời gian). Một hệ quả rất
tổng quát của lý thuyêt trưòng lượng tử là định lý CPT nói
rằng tích của liên hợp điện tích, tính chẵn lẻ và phép nghịch
đảo thời gian luôn luôn là một tính đối xứng của thế giói tuy
rằng từng tính đối xứng tách riêng có thể bị vi phạm. Các
phản hạt được định nghĩa một cách chặt chẽ là các liên hợp
CPT của các hạt tương ứng của nó.
sn?i