Page 140 - Báo Cáo Tổng Kết Đề Tài
P. 140

- Lãnh đạo các doanh nghiệp đánh giá chất lượng ĐT thấp hơn lãnh đạo các
             cơ sỏ quản lý GD và lãnh đạo các cơ sở đào tạo THCN. Điều này cho thấy,
             người sử dụng LĐ trên thực tế đang có đòi hỏi vé chất lượng cao hơn so với
             những người tron ẹ lĩnh vực ĐT. Đây ỉà điều cẩn được suy nghĩ tiếp tục.
         d. So sánh kết quả với nhu cầu LĐ trình độ THCN
            Trong điều kiện  KTTT, việc so sánh các kết quả về số lượng trên đây  với  nhu
         cầu thực tế vé lao động THCN là điều quan trọng nhất.
            Để thực hiện việc đánh giá này, chúng ta cần xem xét ở 2 khía cạnh:
            •ộ-  So sánh kết quả sổ lượng ĐT chung và theo ngành với tình hình tỷ lệ thất
         nghiệp chung và theo ngành tương ứng. Tuy nhiên,  đây là một điều khó khán  bởi
         chúng  ta không có  số liệu  HS được ĐT theo  ngành, mà chỉ  có theo khối (nhóm)
         ngành. Vì vậy, việc so sánh ở đây chỉ có ý nghĩa xem xét chung về mặt xu hướng.
                Xem xét kết quả đáp ứng nhu cầu thông qua ý kiến của người sứ dụng LĐ.
            -  Theo  kết  quả  thống  kê  điều  tra  lao  động  và  việc  làm  năm  2003  và  2004
         (Bảng  17,  BCTKĐT)  và kết quả KS của đề tài  (Bảng  18,  BCTKĐT), có thể nhận
         xét như sau:
             +  Số lượng  LĐ  có  trình  độ  THCN  có  việc  làm(4,07%)  ít  hơn  số  lượng  LĐ
         trình độ CĐ, ĐH (4,44%) có việc làm. Đây là một điều bất hợp lý cần được chú ý.
             4- Vẻ tỉ lệ thất nghiệp nãm 2004 (Bảng  17, BCTKĐT): lao động THCN chiếm
         tỉ  lệ  6,27%,  thấp  hơn  so  với  tỉ  lệ  thát  nghiệp  của  LĐ  trình  độ  CĐ,  ĐH  trở  lên
         (8,22%). Theo chúng tôi, sự chênh lệch này chỉ mang ý nghĩa tương đối.
             +  Nhu  cầu  của  các  doanh  nghiệp  về  số  lượng  lao  động  THCN  nhìn  chung
         đang ở trạng thái thiếu (Bảng  18, BCTKĐT).
             Như vạy  có thể nói việc tiếp tục mở rộng quy mô đào tạo THCN vẫn đang
         là một nhu cầu cao của KT - XH nước ta.
             Từ những khía cạnh và số ỉiệu đã xét ở trên có thể kết luận rằng:  Kết quả phát
         triển qui mô đào tạo THCN thời gian vừa qua còn rất thấp, chưa đạt được mục tiêu
         số  lượng  đề  ra  cho  năm  2005  (Thu  nhận  được  10%  học  sinh  trong  độ  tuổi  vào
         THCN).  Bên cạnh  đó,  chất lượng ĐT chưa được  đánh  giá  cao và chỉ ở mức  chấp
         nhận được.
            Tóm ỉạỉ, trong thời gian vừa qua, mặc dù Nhà nước đã ban hành thực hiện
         một số c s đôi mới giáo dục THCN, đặc biệt là các c s tăng chỉ tiêu ĐT hàng
         năm, mở các trường THCN ngoài công lập, ĐT đa cấp - đa ngành, tăng cường
         liên kết ĐT với sắn xuát - sử dụng LĐ,...  nhưng việc đào tạo THCN vẫn còn
         rất hạn chê\ chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển KT - XH cả về mặt số lượng
         cũnh như chất lượng. Tình hình thực tế đang đòi hỏi đào tạo THCN cần phải
         được tiếp tục tâng nhanh về số lượng và nâng cao hơn vé chất lượng.


                                      14
   135   136   137   138   139   140   141   142   143   144   145