Page 138 - Nhân Vật Lịch Sử Tiêu Biểu
P. 138
dân ở Tam Đái, Bắc Giang (bắc sông Hồng) chuẩn bị nhà cửa sẵn ở
vùng đất hoang phía nam sông, sẵn sàng di chuyển khi giặc đến;
huy động dân đóng cọc vùng sông Bạch Hạc (Phú Thọ) để ngăn
giặc từ bắc xuông và đôn đôc dân phu đắp phòng tuyến Đa Bang.
Tuy nhiên, trong tình thế thúc bách trưốc nguy cơ xâm lược từ
bên ngoài, một sô" biện pháp cải cách kinh tê - xã hội của nhà Hồ
trỏ nên quá mạnh SO với thời đó (như phép hạn điền), có mặt lại
chưa triệt để (như nông nô, nô tỳ không được giải phóng)... đã gây
thêm mâu thuẫn trong nội bộ, ảnh hưởng sâu sắc đến ý thức đoàn
kết của nhân dân khi xảy ra nạn ngoại xâm. Hồ Nguyên Trừng đã
phát hiện ra điều đó và trình bày chính kiến của mình trong một
cuộc họp của triều đình trước ngày quân Minh gây chiến xâm lược.
Đó là vào khoảng tháng 9 năm 1405, Hồ Hán Thương chiếu truyển
An phủ sứ các lộ vê triều cùng các quan ỏ kinh họp bàn quốc sự.
Khi bàn nên hòa hay nên đánh quân Minh, trưỏc Thái Thượng
hoàng, nhà vua và các quan văn võ, Tả tướng quốc Hồ Nguyên
Trừng đã phải thốt lên: “Thần không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân
không theo thôi!”, và lời phát biểu đó được ghi nhận khi Hồ Quý Ly
ban cho Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng cái hộp trầu bằng vàng1.
Hơn nửa năm sau cuộc họp đó, nhà Minh sai Hữu quân đô đốc
đồng tri Hàn Quan và Tham tướng đô đốc đồng tri Hoàng Tùng
đem 10 vạn quân sang xâm lược nưóc ta. Sáng ngày 8 tháng 4
năm 1406, quân Minh đánh vào cửa ải Lãnh Kinh. Cuối năm, chúng
vượt sông Hồng đánh vào thành Đa Bang. Cuộc chiến đấu giữa
quần nhà Hồ và quân M inh trỏ nên quyết liệt hơn. Ngày 20
tháng 1 nàm 1407, thành Đa Bang thất thủ, tuyến phòng ngự
ngăn quân Minh bị võ, giặc tràn vào cướp bóc kinh thành Thăng Long.
Tháng 2 năm 1407, Hồ Nguyên Trừng cho quân lui về đóng ở
Hoàng Giang (Hà Nam), do bị quân Minh hai bên bờ đánh kẹp lại, nên
1. Xem: Viện Khoa học xã hội Việt Nam: Đại Việt sử ký toàn thư,
Sđd, t.II, tr. 211.
140