Page 251 - Việt NamVăn Minh Sử
P. 251

Bắt buộc phải có sự biến chế chữ Nôm từ chữ Hán ra để dùng trong
         việc làm  sớ cúng cấp, làm đơn từ đưa đến cửa quan.
               Theo  Lê  Dư  (trong  bài  Chữ  Nôm  với  Quốc  ngữ,  đăng  ở  Nam
         Phons). chính Sĩ Nhiếp đã sáng chế ra chữ Nôm.
               Sách  Đại  Nam  Quốc  Ngữ của  Nguyễn  Văn  San  đời  Tự Đức  cũng
         cho như vậy '"SĩVươm> bắt đầu lấv ticmq Tàu dịch  ra tiếng ta,  nhưng đến
         chữ 'dhư cưu" không biết  gọi lù chim  gì, dến chữ "dương dào" thì không
         biết gọi lù quả gì".
               Sách Việt Nam c ổ  Văn Học Sử của Nguyễn Đổng Chi cũng có viết:
               "Việc  sáng  tạo  chữ Nỏm  do  một  sô' người  Tàu  hợp  lực  với  người
         Nam khởi dặt.  Công cuộc  thành  tựu  dã phải trài qua nhiều  năm  do các
         tín dồ Khổng  giáo  cũng như bên  tín dồ Phật vù Lão chắp  nối mà  thành.
         Nguyên  người Quảng Tín,  quận Thương  Ngô  (Quảng Tây)  là quê hương
         của họ Sĩ từ xưa dã có một thứ tục tự như chữ Nôm. Trong khi thích nghĩa
         kinh  truvện  và trong khi  tlĩuvết pháp cúng dàng họ  mới suy  theo  lối chữ
         ấv rồi bàv ra chữ Nôm. Thứ văn  tự mới từ dó xuất hiện  viết theo  nguyên
         tắc hội ý và hài thanh của chữ Hán :
               a) Hoặc mượn cd chữ liền nghĩa: dầu là dầu, sách là sách.
               b) Hoặc mượn chữ mù khác nghĩa như: ai lù cái.
               c) Hoặc mượn chữ mà dọc chệch ra giọng ta xưa như: xa dọc là xe,
         cẩm dọc là gấm, toụ dọc lù toà, bình dọc là bằng.
               d) Hoặc ghép nhau  lụi cd hội  ý liền hài thanh  như nước có thiiỷ  và
         nhược, áo gồm có y vù áo, lừa gồm có mã vù lư.
               e) Hoặc dặt dấu  nháy đê’ dánh  vào chữ Hán  nào giọng từa tựa như
         tiếng ta dể dọc chệch ra...".
               Ta nhận  định  rằng  sự cho thêm  một  vài  dấu  vào chữ có sẩn để khi
         đọc thi phát âm theo đúng giọng địa phương, đã chỉ là một cách văn quen
         dùng của người ta, không  cứ người  đất Quảng Tín  mới  biết và  không  cứ
         chỉ ở Quáng Tây mới có tục tự hệt như chữ Nôm.
               Nói rằng hồi đó nhiều người ở quê hương Sĩ Nhiếp qua và cộng tác
         vào  việc  truyền  bá  Nho  học,  Phật  học  thì  đúng  hơn.  Song  nhiều  người
         khác nữa ở những vùng khác và nhiều người Giao Chỉ cũng đã thể theo sự
         phát âm  của người  Giao Chỉ để chế hoá chữ Hán đi  mà tạo ra chữ Nôm
         tuỳ  theo  ý  mình,  không  có định  lệ  chung  nào hết.  Cho  nên  mới  có  hiện
         tượng  lộn  xộn  một  chữ có thể viết ra hai  ba  lối  khác  nhau,  hay  một  chữ
         đọc ra ba bốn tiếng khác nhau.
               Điều  chắc  chắn  là  thời  ấy  chưa  có  ý  thức  rõ  rệt  về  việc  dùng  chữ
         Nôm làm một thứ chữ Quốc ngữ, mà việc tạo ra chữ Nôm cũng chỉ mới là

         262
   246   247   248   249   250   251   252   253   254   255   256