Page 252 - Việt NamVăn Minh Sử
P. 252
một biến báo theo cần dùng cấp thời của người ta và xong đâu lại bỏ đó,
chứ không tiếp tục nữa.
Nguyên do chính về việc ra dời của chữ Nôm là vì đạo Phật được
truyền qua Lâm ấp và đến thẳng ta, khiến có những tiếng Lâm ấp, tiếng
Ân Độ đọc sang tiếng ta mà không có chữ trong bộ chữ Hán. Sau này đạo
Phật truyền qua Tàu rồi quay trở lại ta thì khi dịch kinh, người Tàu đã sẩn
chữ Hán dê phiên âm rồi, ta chỉ việc học theo và đọc theo giọng của ta
mà không cần tạo ra chữ Nôm nữa. Công việc tạo chữ Nôm vì đó có một
thời kỳ nguTtg lại.
Tầm mức quan trọng của việc sáng tạo chữ Nôm này là ở chỗ củng
cô thêm cho tiếng Việt.
Điều bất hạnh lớn nhất, nếu xảy ra, là người Việt quá thông minh
lại đọc chữ Hán theo dúng giọng đọc của người Hán. Chừng đó, dần dần
tiếng của mình sẽ mất hết và dân của mình sẽ bị hút vào cái đại khối dân
Trune Hoa. Điều bất hạnh ấy, ta tránh được. Đến những tiếng riêng của ta
mà chữ Hán không đủ để phiên âm thì từ nay ta có cách viết ra những
tiếng ấy bàng chữ Nôm.
Ta phủi kính trọng công việc sáng tạo chữ Nôm ấy như một việc
cứu dân cứu nước vậy, mặc dầu ta biết Sĩ Nhiếp khi làm việc sáng tạo chữ
Nôm đã chỉ nhằm mục đích riêng để cai trị cho dễ.
HOC PHONG ĐỜI Sĩ NHlẾP
Sử cũ vẫn ghi lại cái 011 của Sí Nhiếp “trị dân có phép tắc, lại chăm sự dạy
bảo dân, cho nên lòng người cảm mộ công đức mới gọi tôn là Sĩ Vương"
Nhưng ngoài Sĩ Vương là người cầm quyền, ta cũng không thể quên
được nhũng danh sĩ khác như Mâu Bác, người đã chạy sang Giao Châu
lánh nạn và khi tới nơi đã biện giải vẻ Lão học khiến không ai dám thảo
luận với ông. Sau cùng, ông đã bỏ Lão mà theo Phật giáo.
Điều ấy chứng tỏ không khí học hỏi ở thời ấy đã cao. Một tài liệu
khác trong Đảm thiên pháp sư triívện còn chứng tỏ đã có việc học Phật
thắng từ kinh sách An Độ mà không gián tiếp qua trung gian của Trung
Hoa. Sách ấy. do sư Đàm Thiên người Tàu soạn, có đoạn chép lời của
Pháp sư tâu với Hoàng hậu, vợ vua Tề Cao Đế (479- 482):
Giao Châu nhất phương dạo thông Thiên Trúc, Phật pháp sơ lai
Giam’ Đông vị bị nhi Luv, Lũ hựu chùm’ sáng hưng bảo sái nhị thập dư
sà, dộ tăng ngũ bách dư nhân, đùm kinh nhất thập ngũ quyển (Xiì Giao
(I)
Trần Trọng Kim. Việt Nam sử Lược.
263