Page 253 - Việt NamVăn Minh Sử
P. 253

Châu  tiện  dườn^  saruị  Thiên  trúc.  Khi  Phật pháp  hắt  dần  mới  sang  ta
       (Tàn)  chưa  tới miền  GiaiìíỊ Đòng,  mà  â Lnv,  LÃ!  dã sáng  lập  hơn  20  cái
       hảo sái, dộ hơn 500 thầy tn vù dịch dược ỉ5 cpivển kinh).
            Ta cấn  xác định  yếu tô thời  sian nói ở đây. Theo tài  liệu chính  xác
       thì  năm  65  Lạc  Dương  đã  cỏ  một  tu  viện  Phật  học  được  chính  em  của
       Hán Đế bảo trợ cho. Đến khi ông tự sát thì tu viện thành chùa và đạo Phật
       ánli  hưởnư dán  vào lới  triều đình, một vị  hoànư đế cũng quy y  năm  166.
       Từ giữa thế kỷ thứ II  ấy, tại  chùa đã có  một đoàn rất đônư  những  nhà tu
       nưoại quốc có danh tiếng như An Thế Cao chuyên lo dịch kinh  Phật sang
       chữ Hán lâu tới  hơn một thố ký về sau. Khi  nhà  Hán dổ, Trung  Hoa chia
       ba chân vạc Ngô, Nguy Thục thì chùa Lạc Dưcmg sầm  uất ư Nguy và đạo
       Phật tràn thêm xuống Ngô mà qua ca Giao Châu.
            Như thế nghĩa  là Đàm Thiên  Pháp Sư dã  nói  rõ:  khi  dạo  Phật  sang
       Tàu. chưa tới miền Giang Đông của Ngổ, ở thời Tam Quốc (lức là  thời Sĩ
       Nhiếp này)  mới  sám  uất  ở Nguy  thôi,  tại  Giao Châu  dã  sáng  lập hơn  20
       cái bao sái, dộ dược hơn 500 ihciy lu. và dịch dược  15 quyên kinh rồi.
            Cho nên  Mâu  Bác  chạy  loạn  Tam  Quốc  sang  Giao  Châu  mới  thấy
       sán  nền  nếp  Phật  giáo  dể  bỏ  Lĩio  sang  Phật.  Và  do  đó,  ta  nhìn  thấy  xu
       hướng  văn học của thời  ấy:  Phật  giáo dã ánh hưởng  hết  sức  lớn  vào giới
       trí thức của Trung Hoa cũng  như Lạc Việt, cơ hồ át được cái  thế độc tôn
       dáng lẽ phải có của văn hoá Trung Hoa.
            Đó  là  phần  tư tưởng.  Còn  phần  văn  tài  để được  phong  những chức
       quan  ngay  tại  triều  đinh  Trung  Hoa thì  sử có  ghi  có  Lý  Tiến  người  Cao
       Huĩig đất Giao Châu đã giữ chức Thứ sử.  (không rõ Thứ sử ở châu  nào),
       khoáng  niên  hiệu  Trung  Bình  đời  Hán  Linh  Đế;  và  Lý  Cầm  cũng  người
       Giao Châu hàm Túc vệ trong triều Hán. sau giữ chức Tư lệ Hiệu Liý.
            Tuy  nhiên,  không  hẳn  có  một  số  những  vãn  tài  lỗi  lạc  cỡ  ấy  mà
       người  Trung  Hoa và  triều  đình  Trung  Hoa  dã  bớt  khinh  người  Lạc  Việt
       (vẫn gọi  là Nam Man). Cho nên khi có một ông Thái  thú như Sĩ Nhiếp tỏ
       ý chân thành vỗ về thương mến dân thì dân mến ngay.
             Nhưng Sĩ Nhiếp cai trị được 35 năm (lừ  187 tới 222) thì  Trung Hoa
       bắt đầu chia ba chân vạc rõ rệt thành Ngô. Nguy, Thục và dất Giao Châu
       thuộc về Ngô. Họ Sĩ lại tuân phục mệnh lệnh của Ngô triều. Cho đến năm
       Hoàng Vũ thứ năm của nhà Ngô (226) thì Sĩ Nhiếp mất, con  là Sĩ Huy tự
       xưng Thái thú. Nhưng Ngô chủ không cho.
             Ngô chủ là Tôn Quyền phân chia lại các châu, quận: từ Hợp Phố về
       Bác gọi  là Quang Châu, từ Hợp Phố về Nam gọi  là Giao Châu, sai Lữ Đại
       làm Quảng  Châu Thứ sử,  Đái  Lương  làm Giao Châu Thứ sử,  và  sai  Trần
       Thì sang thay Sĩ Nhiếp làm Thái thú Giao ChíiLi.

       264
   248   249   250   251   252   253   254   255   256   257   258