Page 24 - Việt NamVăn Minh Sử
P. 24

Sách này có sau đời Hán. nghĩa là sau khi nước ta đã bị nội thuộc Trung
          Hoa, và đã có một sự kiện lịch sử là họ Thục thay ngôi Hùng Vưoìig, đổi tên
          nước Âu Lạc, thêm một thực tế xã hội khác là sự pha giống giữa người  Bách
          Việt và người dân Lạc. Tên Lạc Việt nói lên sự pha giống ấy
               Vậy cần xác định thời gian để chính danh: Lạc Việt chí nén được ké’
          từ thời Thục về sau, còn từ  đời Thục về trước là Văn Lang, Giao Chỉ, hay
          nếu thích dùng Lạc Việt thì phải chỉ đích là tiền Lạc Việt.

          THỜI TIỀN LẠC VIỆT DÀI TỚI Hốl NÀO?

               Linh  mục  Lương  Kim  Định  trong  bài  Ba cíợt  văn  minh  đãng  trong
          Bách Khoa .vơ 305 ngày  15-9-1969 đã viết:
                “Cớ  người  cho  rằmị  cúc  cụ  xưa  thêu  dệt khi  tnóc  nối  tổ’ tiên  Việt
          vào họ Thần Nông. Đó không plìdì là thâu dệt, mù tất nhiên phải như thế,
          hài  vì Bách Việt với Tam Miêu  là hai ngành  lớn  của Viêm  tộc.  Viêm  tộc
          là dòng dõi Thần  Nông  và Thần  Nông dây không nên  hiểu  là một nhân
          vật, nhưng là một đợt văn minh dã di vào nghề nông. Thổn  Nông lấv hiệu
          là  Viêm  Đế.  Chữ Viêm  ghép  hởi  hai  chữ Hod  nên  Thần  Nông  cũng  là
          thần Lửa, vì có thể do hai lý do sau: một là để duy trì kỷ niệm phút minh
          ra lửa (Toại Nlìưn) hai nữa là dùng lửa dốt rảy phú hoang dể cấy lúa. Vì
          một hoặc cả hai lý do mà từ dấy  vể sau  nông nghiệp  và lửa gắn liền  với
          Viêm  tộc trong rất nhiều danh  hiệu như Xích  Quỷ ịíỊué li) Thái Hạo, Đế
          Mình  v.v...  vì thế, con cháu Thần  Nông hay những người lùm nghe nông
          dầu tiên gọi là Viêm tộc. Và khi sử viết rằng cháu ba dời vua Thần  Nâng
          là Đế Minh thì chỉ có ỷ nói dến mối liên hệ nông nghiệp dó.  Có lẽ người
          .xưa dã muốn  ghi mối  liên  hệ  này  vào dạng  tự chữ Việt  và  Miêu,  vì chữ
          "Việt’' han dầu viết với bộ me lù gạo, còn chữ "Miêu " lù bộ tháo với chữ
          diền,  nói  lén  rõ tính  chất  nông  nghiệp,  nên  trong  Kinh  Thư  gọi  là  Hữu
          Miêu,  nghĩa  lù dân  có  ruộng.  Vì mối  liên  hệ  văn  minh  nông nghiệp  này
          nên việc gì xdy tới cho Thần Nông, cho Hữu Miêu thì cũng âm vang .sang
          Bách  Việt  vì cả hai  dều  là  con  cháu  Thần  Nông,  cùng  là  Viêm  tộc,  tức
          cùng .sống trên cảnh  vựd~' cùng chung một nền  văn hoá nông nghiệp, mù


            Và cần  dược  hiểu  theo nội  dung  ấy,  chứ không  phải  nội  dung  của Đào  Duy  Anh
          coi  tố tiên  trực tiếp và thuần  khiết của ta  là người  Lạc  Việt  vùng  Phúc  Kiến  (Có nói
          rõ ớ những trang sau).
            Miền đất chiêm cứ của Tam  Miêu có thế quy định phần nào xuyên qua sử liệu cúa Tứ
          truyện  (Chiêu  Nguyên  Niên)  hay Chiến (/Iiốc .sách  (quyến  14)  phía  trái  là hồ  Bành  Lãi
          (Bành  Dương  Hồ)  phía phải  là Động Đình  Hổ  và  Vân  ,Scm  ở mạn  Nam,  còn  Bắc  là  núi
          Hành  Sơn.  Có  thể  xem  thêm Kinh  r/;;r(Legge  p.  39).  Như thế Tam  Miêu  lân  bang  với
          Bíích Việt nếu không phải là quê hương Bách Việt (Lbi chú của tác giả).
          26
   19   20   21   22   23   24   25   26   27   28   29