Page 22 - Việt NamVăn Minh Sử
P. 22
Hoàn Vũ, thì một quvển chép Văn Lanq chữ Lang “Ấp" hên (Thái Bình
Nrự Lãm) chữ Lang nàv đúng với chữ tên nước ta mà sử thần dã chép ra
khắp các sử Nam
Nhiều quyển khác, iheo Nguyễn Văn Tố, cũng có dùn2 chữ Nam Giao.
“Chữ Nam Giao thấv trước nhất ở Kinh Thư. Bộ Ngũ Kinh Tường
Thuyết, Thư Kinh (q.l5, tờ 14a) chép: “mệnh Hv Thúc trạch Nam Giao"
(sai H\’ Thúc sang à Nam Giao) dưới chú thích rằng: “Nam Giao lù đất
Giao Chì ở phương Nam" (Nam Giao: Nam phương Giao Chỉ chi dịa).
Khâm Định Việt Sử Tiền Biên ql tờ 5h chép nguyên văn và chú thích
dũng như thế. Sử Tàu cũng vậy, nay quyển Ngự Phê Thông Giám Tập
Lãm (q.I tờ I3h) viết chữ “cư” chứ khômị viết chữ “trạch"như Kinh
Thư, vù chép vào năm Giáp Thìn (2357 tr. CN) lù năm thứ nhất dời vua
Nghiêu, dưới chú thích rằny: “Nam Giao là dất Giao Chỉ, sách dịa lý
Kim Thích cho lù nước An Nam lĩíỊày nay". Mấy chữ An Nam là lội của
triều thần Kiền Long (1736-1793).
Năm thứ nhất vua Nghiêu m>ang với năm 523 của họ Hồng Bùng:
bên ta đã có tên nước thểniLt hên Tàu vẫn gọi là Nam Giao hay Giao Chỉ.
Có lề tại bấy giờ nước ta chỉ tiếp giáp với Tàu, chứ chưa cố giao thiệp gì
nên hân Tâu vẫn chưa biết tên ”.
Người ta cũng dùng chữ Việt Thường nữa. Nguyễn Văn Tố viết:
“Đến Việt Thường (nghĩa là xiêm nước Việt) một bộ của Văn Lang, người
Tàu cũng cho là tên nưk/c. Sách Ngự Phê Thông Giám Tập Lãm (q.l tờ 14
a) chép: “Năm thứ năm dời vua Nghiêu (tức năm Mậu Thân, 2353 tr.
CN) người Việt Thường đến chầu; phải hai lần thông ngôn dâng rùa lớn
sống nghìn năm, vuông non 3 thước, trên mai cỏ dấu chữ Khoa dẩu (lù
tối chữ Tàu cổ, hình giống con nòng nọc) chép từ khi mà trời đất. Vua
Nghiêu sai chép vào sách.
“Chỗ này sử Tàu chú nghĩa chữ Việt Thường: ở phía Nam Giao
Chỉ, dời Tần lả huyện Làm Ẩp, đời Hán lù Tượng Lủm, từ d('n Tần về sau
là nước Lâm Âp, sau rồi là nước Chiêm Thành (chữ Phạm gọi là
Champa). Xem qua chỗ chú nghĩa ấy có người tưởng Việt Thường không
phái nước ta, nhưng dây sửTàu chỉ chú từ dời Tần trà xuống cỏn Tẩn trở
lên ngang với nước ta vào dời Lạc Vương thì trong 15 hộ của Lạc Vương
có hộ Việt Thường, sử Táu không chép Việt Thường hộ, mà chép lả Việt
Thường thị, gọi tắt là nước Việt Thường. Cùng một việc ấy, hèn sử ta chép
rằng: “mới hắt đẩu sai sứ sang nhà Đưcmg dáng thân quỉ” Tuy không
chép rỗ Việt Thường hay Giao Chỉ nhưng chép vào đời Lạc Vương, mà
Lạc Vương hấy giờ dã có tên là nước Văn Lang; chính việc sai sứ sang
Tàu là việc của nước Văn Lang mà hên Tàu gọi là Việt Thưèmg. Quyển
Việt Kiều Thư (q.3 tờ la) chép hẳn lù Việt Thường quốc.
24