Page 26 - Việt NamVăn Minh Sử
P. 26

Sách này có sau đời Hán. nghĩa là sau khi nước ta đã bị nội thuộc Trung
          Hoa. và đã có một sự kiện lịch sử là họ Thục thay ngôi Hùng Vương, đổi tên
          nước Âu Lạc, thêm một thực tế xã hội khác là sự pha giống giữa người  Bách
          Việt và người dân Lạc. Tên Lạc Việt nói lên sự pha giống ấy
                Vậy cần xác định thời gian để chính danh: Lạc Việt chí nên được kể
          từ thời Thục về sau, còn từ  đời Thục về trước là Văn Lang, Giao Chi, hay
          nếu thích dùng Lạc Việt thì phải chí đích là tién Lạc Việt.

          THỜI TIỀN LẠC VIỆT DÀI TỚI Hổl NÀO?
                Linh  mục  Lương  Kim  Định  trong  bài  Ba đợt  vùn  minh  đăng  trong
          Bách Khoa .vô'305 ngày  15-9-1969 đã viết:
                “Có  m>ười  cho  rằníỊ  cúc  cụ xưa  thêu  dệt khi  móc  nối  tổ tiên  Việt
          vào họ Thần Nông. Dỏ không phdi là thêu dệt, mà tất nhiên phủi như thế,
          hài  vì Bách Việt với Tam Miêu  lù hai ngành lớn  của Viêm  tộc.  Viêm  tộc
          là  dòng dõi Thần  Nông  và Thần  NÔUÍ> dủv khàng nên  hiểu  là một nhân
          vật, nhưng lù một đợt văn minh dã di vào nghê nông. Thần  Nông lấv hiệu
          là  Viêm  Đế.  Chữ Viêm  ghcp  hài  hai  chữ Hod  nên  Thần  Nông  cũng  lù
          thần Lửa,  vì có thể do hai /ý do sau: một là dể duy tri kỷ niệm phát minh
          ra lửa (Toại Nlìưn) hai nữa lù dùng lửa dốt rẫy phá hoang dể cấy lúa. Vì
          một hoặc cd hai lý do mù từ dấy  vể sau nông nghiệp  vù lửa gắn liền  với
          Viêm tộc trong rất nhiều danh  hiệu như Xích  Quy ịcpiẻ li) Thái Hạo, Đế
          Minh        vi thế, con  cháu Thần  Nông hay những người lùm nghề nông
          dầu tiên gọi là Viêm tộc. Vù khi sử viết rằng cháu ba dời vua Thần  Nông
          là Đế Minh thì chỉ có  ý nói dến môi liên hệ nông nghiệp dó.  Có lẽ người
          .vua  dã muốn  ghi  mối  liên  hệ  này  vào dạng  tự chữ Việt  và  Miêu,  vì chữ
           “Việt ” han dầu  viết với hộ mễ là gạo, còn chữ “Miêu ” lù bộ thảo với chữ
          diền,  nói  lên  rõ tính  chất nông  nghiệp,  nên  trong  Kinh  Thư  gọi  là  Hữu
          Miéu,  nghĩa  là dán  có ruộng.  Vì mối liên  hệ  văn  minh  nông  nghiệp  này
          nên việc gì xdy tới cho Thần Nông, cho Hữu Miêu thì cũng âm vang .sang
          Bách  Việt  vì cả hai dều  là  con  cháu Thần  Nông,  cùng  là  Viêm  tộc.  tức
          cùng sống trên cdnlĩ vựC~' cùng chung một nền  văn lĩoá nông nghiệp, mù

            Và cấn  được  hiểu  theo  nội  dung  ấy,  chứ không  phải  nội  dung của Đào  Duy  Anh
          coi  lố tiên  trực liếp và thuần  khiết  của ta  là  người  Lạc  Việt  vùng  Phúc  Kiến  (Có nói
          rõ ở những trang sau).
            Miền đất chiếm cứ của Tam  Miêu có thê quy định phần nào xuyên qua sử liệu của Tá
          truyện  (Qúêu  Nguyên  Niên)  hay Chiến cỊuấc sáclì  (quyến  14)  phía  trái  là  hồ  Bành  Lãi
          (Bành  Dưong  Hổ)  phía phải  là Động Đình  Hồ và Vân  Srm  ở mạn  Nam,  còn  Bắc  là núi
          Hành  Sơn.  Có  thể  xem  thêm Kinh 7/»r(Lcgge  p.  39).  Như thê'Tam  Miêu  lân  bang  với
          Bitch Việt nếu không phái  là quê hưoìig Bíích Việt (Lơi chú cúa tác giả).
          26
   21   22   23   24   25   26   27   28   29   30   31