Page 23 - Việt NamVăn Minh Sử
P. 23

“Cáclì một tỉí>hìn  năm, đến nùm Tân Mão ịll 10 tr.  CN) là năm thứ
      sán dírì viiư Thành Vinmg nhà Chu, sửTùii chép rằng:  '‘Phía Nam Giao Chỉ
       có người Việt Thườníị sang Tàn dâm’ hạch trĩ, qua hai ha lần thông ngón,
       nói  rằng:  "dường sú xa xôi non  sông  cách  trử,  sự rằng một lần  thông sứ
       klìôni’ hiển tiếng nhan, cho nên phải qna ha lần thông ngôn để sang chân
       Chn Công nói:  "Đức trạch không khắp ú/i nơi, người quán tử không nhận lể
      sơ kiến. Chính lịch không khắp tới mri, người quán tử không nhận người ấy
      .xưng thán".  Ngitời thòng ngôn  dáp  rằng:  "Tôi  váng mệnh  những ỏng  già
       nước tôi hdo: TiTri không gió dữ mưa dầm bể không nổi sóng dã ha năm, hẳn
       là Trung Quốc có thánh nhân, sao không sang chầu  Chu Công dem dâng
       cho vua nlìù Chu, dế dâng cho thần linh của tiên  vương, rồi dem dáng lên
       cung diều. Dến khi sứ gid về, quên mất dưkmg, Chu Công cho năm cỗ hiền
      .xa,  hấn  mặt  có diềm  che  dêu  làm  cách  thức  chỉ nam,  sứ giả di xe  ấy,  từ
       dường hể nước  Phù  Nam  ở cõi  dất nước  Cao  Mên  thời .xưa  của Lâm Ảp
       (Chiêm Thành) dây năm tròi mới về dển nước.  fNgự Phê Tliông Giám Tập
       Lãm  (q.3  tờ 10)  Thiếu  Vi  Thông  Giám  quyển  Chu  ngoại kỉ ịtờ 70h-7Ia)
       Khâm Định Việt sử Tiền Biên (q.Ị tờ ố a-h).
            SửTàu Thiếu Vi Thốna Giám (tờ 70a) chú  giai rằng:  “Việt Thường
       tù tên một nước âphương Nam, ứ phía Nam Giao Chỉ (Nam phương quốc
       danh,  tại Giao  Chi’ Nam)  lại dẫn  Hán  Địa Lý  Chí,  chép:  có  quận  Giao
       Chỉ nguyên là dất Nam Việt.  Năm thứ sáu hiệu Nguyên Đình (ìỉỉ tr. CN)
       dời Vua Vũ Đế đặt ra  và chú:  "Hai ngưcyi thông ngôn  gọi lá dịch:  trùng
       tam dịch, qua ha người thông ngôn. ('Thiếu Vi Thông Giám t('r I7a).
            Thực ra cũng lại không thấy có chữ tên Lạc Việt.

       SỚ Dĩ CÓ TÊN LẠC VIỆT LÀ 1)0 ĐÂU?
            Ngay  những  sách  Giao  Châu  Ngoại  Vực  Ký  (Aurousseau  cho  Là
       xuất  hiện  vào đòi  Tấn  205-420)  mà Thiíỷ Kinh  Chú  (thế kỷ  thứ VI)  lập
       lại,  hay  Quảng  Châu  Ký  mà  Tư  Mã  Trinh  chú  giải  Sử Ký  của  Tư  Mã
       Thiên đã dẫn  lời họ Đào, cũng chỉ thấy  nói đến Lạc dân,  Lạc vương, Lạc
       hầu. Lạc tướng, Lạc diền, không có chữ nào là Lạc Việt cả.
            Duy  chỉ  có  sách  Hậu  Hán  Thư của  Phạm  Việp  chép  chuyện  Mã
       Viện  có  dùng  đến  chữ  Lạc  Việt  đồng  cổ  mà  thôi,  nhưng  lại  vẫn  viết:
       chinh Giao Chỉ



         Trong bcài  Lịch sử Lạc Việt của  Linh  mục  Nguyễn  Phương đăng  ở Bách Khoa  số
       196,  đoạn  dẫn  lời  Hậu  Hán  Thư  kế  truyện  Mã  Viện:  Viện  hảo  kỵ,  thiện  hiệt danh
       niã, chinh Giao Chỉ, dắc Lạc Việt dồng cớ  v.v’...Viện cưỡi  ngựa giỏi, khéo phân  biệt
       (thiện  biệt)  hình dáng  những con  ngựa hay  nổi  tiếng  (danh  mã),  khi qua đánh Giao
       Chỉ, bắt được trống dồng Lạc  Việt  ...
                                                                              25
   18   19   20   21   22   23   24   25   26   27   28