Page 215 - Việt NamVăn Minh Sử
P. 215

ơ đại thể thì  các  thán trona kinh Vê Đa là những vị  hiếu động đam
        mê,  thích  can  thiệp vào những việc  của  người.  Vì  vậy,  thần  là đáng  cho
        người  sợ,  nhưng  khéo  cầu  xin,  thần  lại  thành  bạn  của  người  đế  cùng
        chông với bọn qưý dữ. Nhờ sự khéo nói, khéo nịnh, khéo xúc xiêm, người
        còn có khi sai khiến được thần nữa, thay vì phai  là nỏ bộc cho thần.
              Kê  về  phương  diện  phóng  sự  tướng  tượng  của  con  người  thành
        những  trưyền  thần  kỳ  qưái  dán  thì  Ân  Độ  và  Trung  Hoa,  cũng  bên  tám
        lạng, bên nửa cân. Nhưng nền vãn minh cổ Ân Độ còn nhiổu tuổi hơn nổn
        văn minh cổ Trung Hơa.


        KINH  VÊ ĐA
              Vê Đa có nghĩa là “linh giác” là một tập đại thành nhiểư ban văn về
        lòn  giáo  mà  người  Aryens  đem  vào  Ân  Độ  rồi  khai  tricn  thêm  trong
        nhiều  thế kỷ trên dâ't  ấy.  Nó  là nhũìig  bản  văn  có nội  dung  và  hình  thức
        phong  phú  hết  sức.  Người  ta cho  Icà do sự mách  bao của dức  Bà  La  Môn
        mà  các  tác  giả,  các  hiền  triết,  dã  dược  trực  nhiên  nhạn  biết  để  viết  nên
        ban kinh ấy.
              Kinh  chia  ra  làm  bốn  phần,  phần  văn  vần  Samhila,  phần  văn  xuôi
        Brahamana giải thích  siêu hình vé  Bà La  Môn và hai  phần nữa Avanyaha
        và Upanisad bình luận thêm vé Brahamana.
              Phần văn vần gồm  1028 ca khúc chia ra làm  10 tập.  Mỗi  ca khúc có
        từ  1  đến 58 tiết điệu. Tất cả là  10.462 tiết diệu. Trung bình  là  10 tiết diệu
        trong  1  ca khúc.
              Thưòng  mỗi  ca khilc  gổm  doạn  vào dể  khoa  trương  đổ  dến  một  diệp
        khúc, một lời cầu xin. Đoạn chính ca tụng vị thán bằng nhũng lời cầu nguyện,
         lời ihc nguvền và ta cùng kc lại nhũng đoạn thánh lích vẻ vang, hay nhũng lễ
        nghi  nghiêm  chinh  có dính  dến  sự cầu  đồng  ma thuật.  Cũng  có  doạn  dính
        nhiéu ít dến lịch sử hay sự cấu tạo vũ trụ. Cũng có đoạn là dối thoại.
              Phấn  văn  xuôi  nổi  về  linh  hồn  và  thượng  đè,  cùng  với  Upanisad
        bình  luận thêm  bàng những  bài  ngắn  như để dạy học trò (trường  hợp của
        nhà  bác  học  Pippalèda  trá  lời  cho sáư  người  môn  đệ:  từ đâu  có  sự sống,
        thán  thể  người  gồm  bao  nhiêu  phần,  hoi  thở của  sự  sống  là  0 dâu,  bán
        chất cua giấc mộng Icà gì. nghĩa của tiếng om và  16 thành phán của co thê
        là những gì).

         KINH  M AHAim ÂRATA
              Được kê’ là phần  thứ năm của kinh  Vô  Đa,  kinh  Mahahhârata là  thi
        phẩm dài nhất thế giới  với 90.000 câu thơ, chia thành  18  quyển  (mỗi  câu
        tho thường 32 chữ).

        226
   210   211   212   213   214   215   216   217   218   219   220