Page 146 - Việt NamVăn Minh Sử
P. 146

QUY  MÔ CỦA  LÀNC
            Theo  những  điều  kiện  thiên  nhiên  về  mưa  nắng  và  theo  thời  dụng
      biểu của nhà nông như đã nói ở trên, dù còn cuốc đất với lưỡi cuốc bằng đá
      hay  bắt dầu cày ruộng  bằng  lưỡi  cày sắt  và có trâu kéo, người  ta cũng chỉ
      làm dồng được vào thánư tư.
            Ca dao có câu:
                         TlìáníỊ í>iêiiị> là tháng ủn chơi
                         Tháng hai trồmị dậu trổng khoai trồng cà
                         Tìuhuị ha thì dận dã g/ừ
                         Ta di ta hái về nhà phơi khô
                         Thú nít tư di tậu trâu hò
                         Đê’ta sắp sứa làm mùa thám’ năm.
            Ây  là vì tháng chạp, giêng, hai, ba ít mưa, đất khô núi nẻ và hết sức
      ràn,  không  thể  cuốc  hay  cày  được.  Nhà  nông  chỉ  làm  nối  những  đám
      ruộng nhỏ để trồng hoa màu phụ như đậu, khoai, cà. Đến tháng tư bắt đầu
      có mưa rào thì đất mới mềm ra để cày được.
            Nhưng  mùa  tháng  tư ấy  lại  là  mùa  nắng  rát  lắm.  Người  ta chỉ  có
      thể làm việc vào lúc sáng sớm, mặt trời chưa lên cao, và lúc chiều tà đã
      nhạt  nắng.  Còn  buổi  trưa  hè  thì  phủi  nghỉ.  Như  vậy,  phải  dời  nhà  lùa
      trâu  ra dồng lừ rất  sớm  mới  trông  rõ mặt  người, để  làm  việc  ngay,  đến
      khoảng  10 giờ thì nghỉ.  Và buổi chiều thì cỡ 4 giờ bắt đầu  làm cho đến
      xâm xẩm tối  là về.
            Điều kiện giờ giấc làm việc như thế bắt buộc ruộng phủi ở gần nhà.
      Càng ở gần càng tốt. Nếu có xa thì xa nhất là  1  giờ dắt trâu đi bộ.
            Cho  nên  làng  chỉ  nho  nhỏ  thôi.  Người  la đã có  bảng  thống kê  như
      sau đây về diện tích của các làng Bắc Bộ:
                 - Làng rộng từ 0 đến 20 hecla thì có  160 làng.
                 - Làng rộng lừ 20  dến 50 hecla thì có 500 làng.
                 - Làng  rộng  từ 50  đến     100 hecta thì có 1300 làng.
                 - Làng  rộng  từ  100 đến    200 hecta thì có 2400 làng.
                 - Làng  rộng  từ 200 dến     300 hecta thì có  1260 làng.
                 - Làng  rộng  từ 300 dến     400 hecta thì có 610 làng.
                 - Làng rộng hơn 500 hecta thì có 450 làng.
            Nghĩa  là  làng  chi  có  một  quy  mô  trung  bình  cỡ  200  hecta,  với
      đường  bán  kính  đi  ra  ruộng  xa cỡ 800  m,  để đi  về  làm  ăn  cho  tiện,  lúc
      nắng còn lúc mưa.
            Vì  lẽ  ấy,  hễ  làng  đông  người  hơn,  phải  làm  ruộng  ở  xa  hơn,  thì
      người ta đến dựng một làng mới ở giữa khu ruộng mới, và cũng sống theo

                                                                             153
   141   142   143   144   145   146   147   148   149   150   151