Page 117 - Việt NamVăn Minh Sử
P. 117

con  ngựa  đã,  rồi  thấy  nó  trắng  thì  nói  ngựa  trắng,  và  không  nói  trắng
          nsựa, hạch mã như Tàu*".

          NẾN  VÀN  CHƯƠNÍỈ  TRUYỀN  KHẨU

                Có những buổi vui chơi, hội hè, có tiếng nói để thông cám với nhau,
          có  ca  hát  nháy  múa  đế  vui  với  nhau  thì  hẳn  nhiên  phái  có  một  nền  văn
          chương  ở  thể  truyền  khẩu.  Nay  không  còn  ghi  gì  lại  nèn  bắt  buộc  chỉ
          phỏng đoán mà thôi.
                Theo .sự phỏng đoán của chúng  tỏi,  văn chương  truyền  khẩu của ta
          có lẽ đã phát triển theo trình tự này:
                Đầu tiên ra đời  là những thành ngữ thuộc  về cuộc sống gia đình và
          nông  nghiệp,  gồm  hai  tiếng,  hoặc  bốn  tiếng  để  so  sánh  sự  giống  nhau
          giữa  hai  vật  sau  khi  chiêm  nghiệm,  với  mục  đích  không  ngoài  việc  dặn
          bảo nhau để cho dễ nhớ như: cá lứa, chim dàn.
                Tiếp  nữa,  cũng  là  những  thành  ngữ  2  hoặc  4  tiếng  để  hình  dung
          những sự việc so sánh với  những vật chung quanh trong đời sống. Những
          thành ngữ này đã giúp cho người xưa nảy nở óc nhận định về mùa màng,
          thời  tiết, sự vật, như:  chào mào đo đít, chùn cứnq đú mềm, đánh rắn dập
          dần, mặt sứa Ịịan lim.
                Kế tiếp,  từ  chỗ  nhận  định  những  sự  vật  quanh  mình  ấy  người  ta
          quay về nhận định tâm  tình để biến những thành ngữ trên  ra tục ngữ sau
          khi chiêm nghiệm thấy đúng và rồi có những câu cũng 2, hoặc 4 tiếng để
          trao dổi tâm tình giữa trai và gái như: mèo hay ỉa bếp, mẹ qà con vịt, ròng
          ròn^ theo nạ.
                 Đến cuối cùng mới  là những câu hát ru, hát huê tình, hát chơi, gồm
          nhiều câu  2, hoặc 4 tiếng có vần có điệu giản dị mà nội dung cũng chưa
          có gì sâu sắc như kiểu “ro/? vỏi, con voi...'\ '"ông ^iẳng ông giăn^... ” hay
           “Mồng một lá trai mồng hai lá lúa... ” với "con chim chích choè..."  "mày
          tát chuôm tao."...
                Điều  đặc  biệt  trong  những  câu  ấy  là  không  có một  tiếng  Hán  Việt
          nào, cũng không có một tiếng nào chi’ định trạng thái tâm tình rắc rồi hay
          phức tạp.
                Những câu ấy  là những câu gốc trong nền thi, ca của ta.  Có thể nó
          đó  là  những  bông  hoa chỉ  mọc  ở xứ ta vì  đã hợp với  phong  thổ  khí hậu
          của ta để rồi sinh sôi nảy nở ra những bông hoa khác về sau.


             Con  dài  sông,  trường  giang;  thanh  ngán  kiếm,  đoản  kiếm;  cái  đỏ  cờ,  hồng  kỳ;
          loài  trắng quỷ, bạch quỷ;  người  lớn anh, đại  huynh;  người  bé em, tiểu đệ v.v...  đó là
          những cách  nói của Tàu, mà theo người  Việt  là ngược và buồn cười.
           122
   112   113   114   115   116   117   118   119   120   121   122