Page 396 - Các Tổng Tư Lệnh Chiến Trường Nhật Pháp Trong Cuộc Chiến Tranh Xâm Lược Việt Nam
P. 396
Chương 8: NAVARRE 389
Mêkông chứng tỏ đồng bằng Bắc Bộ không còn là “chìa khóa”
của Đông Nam Á. Trước tháng 10-1952, ta không bao giờ ngờ
rằng Việt Minh có thể mở được những trận đánh lớn như vậy.
Quân đội ta phải chống với một quân đội vô hình, lừửì hoạt
và phân tán, bị khóa kín trong các đồn không giữ vững khi địch
sử dụng súng không giật, bazôka.
Quân đoàn viễn chinh và số đơn vị nay giảm sút. Tổng số
lực lượng tham chiến gia tăng nhưng giảm về phẩm châl vì
thiếu cán bộ. Binh đoàn lưu động của ta so với địch còn kém.
Các đơn vị của ta quá mệt mỏi, không có sự chuẩn bị đối phó ở
bâ't cứ lĩnh vực nào khi địch mở những ữận đánh lớn.
Người Mỹ giúp ta tiền và chiến cụ nhimg vì nhận không
phải trả tiền nên chiến cu dùng cho hình thái một cuộc chiến
tranh cổ điển không phù hợp với chiến tranh linh động và mềm
dẻo. Viện trợ Mỹ còn tai hại hơn ưong địa hạt chính ữị, ảnh
hưởng của nó xâm nhập vào các hoạt động nội bộ ta. Nhận viện
trỢ Mỹ, ta đã để gần như mất Đông Dương dù thắng trận. Đây
sẽ là một thảm họa cho nền chính trị của ta”.
Ông nói khi sang Đông Dương, ông đã khuyến cáo Chính
phủ Pháp phải vạch ra một đường lối chính trị đối với Đông
Dương, xác định mục đích chiến ưanh, có thái độ dứt khoát với
nền độc lập của các quốc gia liên kết, phải giải quyết mối quan
hệ Mỹ - Pháp, phải tạo lập một binh đoàn chủ lực lưu động
[Corps de bataille) mạnh mẽ để chiến thắng kẻ địch.
Ông đã xin Chính phủ Pháp gửi cho ông hai sư đoàn lấy
trong thành phần các lực lượng thuộc khối phòng thủ Bắc Đại
Tây Dương. Tuy nhiên, đề nghị đó đã không được châ"p thuận.
Qua nhiều lần thúc giục, Chính phủ Pháp mới tăng viện nhỏ
giọt. Ông xin 12 tiểu đoàn bộ biĩìh, 1 tiểu đoàn pháo bừih nhảy
dù, 1 tiểu đoàn công binh nhimg chỉ được đáp ứng 8 tiểu đoàn