Page 144 - Sổ Tay Chuyên Ngành Cơ Khí
P. 144

biệt thích hợp cho các nhu cầu cắt ren cụ thể. Sô rãnh thoát phoi có thể từ
             2 đến 9. Một số ta rô có rãnh thoát phoi xoắn -  trái hoặc phải. Trừ khi có
             sự chuyên biệt về sô' lượng rãnh thoắt phoi, các ta rô đều có  số rãnh tiêu
             chuẩn tương ứng kích cỡ và kiểu loại. Các kích cỡ thông dụng thường có 4
             rãnh thoát phoi. Các rãnh này dẫn chất bôi trơn đến lưỡi cắt ren và cung
             cấp khoảng hở thoát phoi. Để cắt ren các vật liệu dai, một số ta rô được chế
             tạo với các ren gián đoạn, nhằm tăng khả năng thoát phoi và bôi trơn lưỡi
             cắt tốt hơn.  Các ta rô này có các răng cắt ren xen kẽ các khoảng trống.
                Phần côn ở cuối thanh ta rô là độ giảm góc theo chiều dài các ren dẫn
             đến cuối phần thân ren. Độ côn này cho phép mũi ta rô đi vào lỗ và tăng
             dần  đường kính ren  dể dẫn  phần  thân cắt ren đi vào lỗ  trong khi quay.
             Phần côn càng dài, lượng phoi cắt của từng vòng ren càng nhỏ, do đó  tải
             phân  bố trên  nhiều  lưỡi  cắt  hơn.  Nói  chung,  có  ba  chiều  dài  phần  côn
             thông dụng, gồm loại côn dài, loại trung bình, và  loại ngắn.
                Mũi ta rô côn dài có phần côn dài nhất (8-10 ren) và thường được dùng
             dể khởi đầu cắt ren lỗ.  Mũi ta rô côn trung bình có phần côn khoảng 3-4
             ren, được dùng để cắt ren đến sát đáy lỗ, sâu hơn so với ta rô côn dài. Ta rô
             côn ngắn, còn gọi là mũi ta rô đáy (lỗ), thực tế hầu như không có phần côn,
             nhưng khi  được sử dụng một cách cẩn thận, có  thế  cắt ren  ở đáy  lỗ  nếu
             trước đó đã cắt bằng mũi ta rô côn trung bình. Mũi ta rô côn dài luôn luôn
             được dùng khởi đầu cắt ren lỗ. Tuy có thể khởi đầu cắt ren với  mũi ta rô
             côn trung bình, nếu được sử dụng một cách cẩn thận, nhưng lực tác dụng
             trên các ren dẫn là rất lớn do có  độ côn tương đối ngắn.  Không nên khởi
             đầu cắt ren  lỗ bằng mũi ta rô côn ngắn.
                Nguyên công thứ nhất trong gia công ren lỗ với ta rô  tay là khoan lỗ
             theo đường kính thích hợp. Phương pháp thông dụng lựa chọn kích cỡ mũi
             khoan là xem “biểu đồ cỡ mũi khoan -  ta rô”, được nêu trên cấc Bảng 30-5
             và  30-6.  Chú ý, các biểu đồ  này dựa trên khoảng 75% ren toàn phần.
                Điều này có nghĩa đường kính mũi khoan lớn hơn đường kính phụ của
             ren được cắt bằng mũi ta rô. Kích cỡ mũi khoan trong các bảng này sẽ tạo
             ra lỗ đủ lớn để cắt ren, nghĩa là đỉnh ren sẽ giảm khoảng 25%, Hình 30-5.
                Lỗ khoan để ta rô ren phải đủ lớn để cung cấp khoảng hở giữa vách lỗ
             và đường kính phụ của mũi ta rô. Nếu không thực hiện điều này, sẽ không
             có khoảng hở và mũi ta rô sẽ rất khó xoay, làm xước các ren, dẫn dến găy
             mũi  ta  rô  bên  trong lỗ.  Đỉnh  ren  trong bị  mất 25%  hầu  như không ảnh
             hưdng rõ  rệt đến độ bền.
                Đề cắt ren lỗ với ta rô tay, bạn hãy bắt đầu với mũi ta rô côn dài. Khởi
             đầu bằng cách dặt mũi ta rô  này vào lỗ, cấn thận quay khoảng nửa vòng
             cho  đến  khi  mũi  ta  rô  bắt đầu cắt.  Kiếm  tra vị  trí  mũi  ta  rô  bằng  mắt,
             đường tâm mũi ta rô phải vuông góc với bề mặt chi tiết gia công. Hơi xoay
             ngược mũi ta rô  để bẻ gãy phoi, và quay khoảng nửa vòng.  Mỗi lần quay
             đều phải kiểm tra độ vuông góc của mũi ta rô. Sau khi miĩi ta rô tiến vào lỗ,
             hãy kiểm tra lại độ vuông góc bằng thước ê ke. Nếu không thực sự vuông
             góc, cần hiệu chỉnh vỊ trí mũi ta rô  cho các lần cắt kế tiếp.  Cung cấp đủ

             144
   139   140   141   142   143   144   145   146   147   148   149