Page 102 - Quyền Sống Và Hình Phạt Tử Hình
P. 102
bỏ hình phạt này, con sô" đó đã giảm xuống 44% so với
trước đó. Ví dụ, theo các số liệu nghiên cứu của Cơ quan
phòng chông ma túy và tội phạm Liên hỢp quốc
(UNODC) về các vụ giết người trên thê giối được công bô
năm 2011, tỉ lệ án mạng ở 5 quốc gia Trung và Đông Âu
(bao gồm Cộng hòa Séc, Hunggari, Mônđôva, Ba Lan và
Rumani - cả 5 nước đểu đã bãi bỏ án tử hình từ những
năm 1990) đã giảm 61% từ 4,5 xuống còn 1,6 trên
100.000 vụ giữa các năm 2000 và 2008, đặc biệt với các
vụ án có nạn nhân là nam giới.
Thứ hai: Các phép so sánh giữa các quốc gia có chung
đặc điểm nhân khẩu học và kinh tế xã hội đã cho thấy
rằng tại những nước áp dụng hình phạt tử hình, sô" lượng
các vụ giết người không giảm đi đáng kể. Ví dụ, những
người cho rằng tác động răn đe của án tử hình đã được
chứng minh tại Mỹ khi sô" lượng các vụ án mạng giảm
xuống do việc tiếp tục tiến hành các phiên xử tử và tăng
lên bởi lệnh cấm tạm thời đã phải đối mặt vối thực tê rằng
sự dao động sô" liệu tương tự đã được ghi nhận tại cùng
thời điểm đó ở Canada, nơi không áp dụng án tử hình. Một
nghiên cứu tài liệu mối đây cho thấy rằng, giữa các năm
1974 và 2009, tỉ lệ án mạng ở Tếchdát, Caliphoócnia và
Niu Oóc đã dao động gần như nhau mặc dù có 447 người
bị xử tử tại Tếchdát, 13 người tại Caliphoócnia và không
bản án tử hình nào được thi hành tại Niu Oóc. Một nghiên
cứu tương tự tại Xingapo và Hồng Kông (Trung Quốc) đã
cho thấy trong cùng một giai đoạn, tỉ lệ các vụ giết người
đã dần giảm mạnh ở hai quốc gia này, mặc dù án tử hình
103