Page 80 - Phòng Và Chữa Các Loại Đau Đầu
P. 80
ĐAU ĐẦU DO u NÃO
não thất mà do căng kéo các mạch máu lớn và xoang
tĩnh mạch.
Người ta dựa vào những bằng chứng thực nghiệm là
các tổ chức não phần lớn của màng cứng và màng mềm,
các thành của não thất và đám rối mạch mạc không nhậy
cảm với đau, sự trùng hợp của khu trú đau đầu với vị trí
của xoang tĩnh mạch bị giãn trong tràn dịch não. Các
công trình nghiên cứu của Wolff (Wolff và Rorbes (1982),
Wolff (1933 và 1938)) đã chứng minh rằng màng cứng
thiếu nhậy bén với đau vì là một tô chức không có mạch
máu lớn và sự giãn các động mạch và tĩnh mạch của bề
mặt não do tăng áp lực nội sọ là nguyên nhân xuất hiện
đau đầu. Northfield (1938), qua kết quả thực nghiệm, đã
cho rằng đau đầu trong khi tăng áp lực dịch não - tuỷ là
do "sự chùng các động mạch trong não, cũng như trong
đau đầu do histamin. V.L. Lesnickaja (1949) đã khẳng
định rằng: sự kích thích các phần màng cứng có mạch
máu trong khi mổ, thường xuyên gây nên cảm giác đau.
- Cơ chê của sự giãn các động mạch ngoài sọ khi
tăng áp nội sọ, người ta cho rằng sự giãn đó là do
tăng tỷ lệ C02 trong tổ chức não vì sự dẫn máu lưu
thông của tĩnh mạch đã bị kém đi.
Một bằng chứng gián tiếp giải thích cơ chế đau đầu do
mạch và do huyết áp trong tăng áp nội sọ là sự giông
nhau về triệu chứng lâm sàng với đau đầu do giãn các
động mạch nội sọ. Đau đầu do u não cũng như đau đầu do
histamin, do sốt, thiếu oxy hoặc ở những người nghiện
rượu đều có xu hướng tăng về buổi sáng sớm khi thức
dậy. Đau đầu do tăng áp nội sọ cũng như do giãn động
mạch não, đểu tăng lên khi ho, rặn và xoay lắc người.
B.G.Ergorov (1950) đã tả một trường hợp thắt động
mạch cảnh gốc để ngăn ngừa chảy máu trong khi mổ, lại
có tác dụng cắt hẳn đau đầu. Cũng như trong Migraine,
đau đầu do u não được cắt hẳn cơn bằng cách thắt và cắt
80