Page 347 - Phòng Và Chữa Các Loại Đau Đầu
P. 347
PHÒNG VÀ CHỮA CÁC BÊNH ĐAU ĐẦU
rối loạn bài tiết mạnh gây toát mồ hôi, dị cảm ở họng -
thanh quản, rối loạn vận mạch ở mặt, thường kèm theo
sắc thái lo âu.
Barré (1925) và Liéou (1928) đã đề xuất hội chứng
này dựa trên cơ sở giải phẫu là ở vùng cổ có tổ chức giao
cảm phong phú (chuỗi giao cảm và các hạch, các nhánh
thông dây thần kinh sông) có liên quan chặt chẽ với cột
sông và những nôi tiếp của chúng với động mạch sông
đến động mạch cảnh.
Từ môi liên quan giải phẫu đó, Barré và Liéou quan
niệm rằng các hư khớp (arthrose) cột sông cổ hay các mỏ
xương thoái hoá thông thường, theo giả thuyết, đã tác
động kích thích đặc biệt lên các nhánh thông, xảy ra
trong và cả ngoài đợt đau. Hội chứng này được sử dụng
thịnh hành ở Pháp ngoài các giới thần kinh học, nhưng
không được các nước khác công nhận. Thật ra, bản chất
của hội chứng Barré - Liéou là do bệnh sinh có căn
nguyên động mạch, mà Jung cho rằng chính là hội chứng
suy động mạch nền mà Denny - Brown đã mô tả.
VI. THIÊU NẢNG TUẦN HOÀN HỆ THốNG
MẠCH SỐNG NỀN
Hiện nay người ta thường gọi tắt là thiểu năng sông
nền (insuffisance vertébro - basilaire), lần đầu tiên do
Denny - Brown (1951) và sau đó Milikan và Siekert
(1955) đề xuất.
Hội chứng thiểu năng sống nền bao gồm một sô" triệu
chứng sau: ù tai, giảm thính lực tạm thời, chóng mặt,
mất thăng bằng, ám điểm, trường hợp nặng có thể xuất
hiện cơn "sụp quị" (drop attacks), kèm theo mất hoặc
không mất ý thức, và đau đầu.
Đặc điểm của đau đầu trong hội chứng thiểu năng
sông nền là: đau đầu phía sau, không có điểm đau cô
347