Page 41 - Phong Tục Thờ Cúng Của Người Việt
P. 41
5. TẬP TỤC THỜ TƯỢNG PHẬT
Trong không gian chùa Việt, từ kiến trúc, bài trí, tượng thờ, pháp khí, cho đến
cây cối được trồng trong di tích đều ẩn chứa những cấu tứ sâu sắc bỏi ý nghĩa minh
triết của Phật giáo hòa quyện với ước vọng cầu mùa của người Việt. Nếu bố cục
ngôi chùa theo kiểu “nội Công ngoại Quốc” là hình thức phổ biến hơn cả thì nhìn
chung chùa bao gồm một điện thờ hình chữ “Công”, một dây hành lang bao quanh
ba mặt và một sân rộng. Khu trung tâm là điện thờ Phật của chùa, thông thường
bao gồm ba ngôi nhà nằm kế tiếp nhau, lần lượt là Tiền đường - Thượng điện - Nhà
Tổ, Mẩu..
Bài trí tượng trong tòa Tiền đường
Ban Đức ông ở bên trái tòa Tiền đường, tượng có y phục theo lối võ quan, mặt
đỏ, râu đen, hai bên tượng Đức ông có hai vị thị giả. Truyện xưa vẫn kể: Đức ông
là vị trưỏng giả, thuộc dòng Bà la môn (Bharata) tên là Tu đạt cấp Cô độc. ông là
người đã dùng gạch vàng để lát vườn của thái tử Kỳ Đà mà xây nên vườn Lộc
Uyển, vườn Nai là nơi Đức Thích Ca giảng đạo và tăng đoàn học tập, nơi các vị
Vương, Bà la môn, trưỏng giả, chúng sinh đến tham vấn Đức Thích Ca. Có lẽ vì
công đức ấy mà Đức ông được thờ ỏ vị trí trang trọng bên Phật điện. Lễ Phật chỉ
cần đồ lục cúng hương, hoa, đăng, nến, trà, quả, thực, không dâng tiền vàng, đồ
mặn, đồ mã... Tiền đặt trong chùa là chi phí dầu đèn, tu bổ di tích và nuôi chúng
tăng, không đặt tiền lên bàn thờ, đĩa lễ mà bỏ vào hòm công đức ở ban chính. Nếu
bỏ tiền lên ban Phật, gài vào tay, thân tượng Phật, thánh là bất kính, vừa trái với
giáo lý nhà Phật vừa dễ làm tiền cháy, rơi, bẩn.
Ban Thánh hiền ỏ bên phải tòa Tiền đường, tượng mặc áo cà sa vàng, đội mũ
Liên hoa Thất Phật, chân dung hiền hòa, tươi tắn, bên cạnh có hai vị thị giả. Thánh
hiền là cách gọi dân gian đây là A Nan Đà dịch nghĩa là Hoan Hỉ anh họ và cũng là
đệ tử thứ hai của Đức Thích Ca Mâu Ni. Truyện rằng: A Nan Đà thuộc dòng dõi Bà
la môn, hoàng gia triều vua Tịnh Phạn. Ngài được mệnh danh là đệ nhất Đa văn
thánh giáo Người nghe nhiều lời dạy của Đức Thích Ca Mâu Ni, là người đã cùng
với tăng đoàn kết tập kinh điển của Phật sau khi ngài tịch diệt. Trong một lần khất
thực, gặp người phụ nữ yêu mình say đắm, ngài đã vượt qua tình ái lứa đôi và xin
với Đức Thích Ca cho nàng đó được xuất gia, phát tâm từ bi yêu thương toàn nhân
loại, từ đó trong Tăng đoàn xuất hiện hàng Ni.
Tượng Bát bộ Kim Cương: Là vị phiếm thần, gồm tám pho tượng đứng hai bên
gian tiền đường làm không gian tăng thêm phần uy nghiêm. Các tượng đều mặc áo
giáp trụ, mũ kim khôi, đi hia, cầm binh khí song dáng đứng theo các thế tấn, thế tay
khác nhau thể hiện tinh thần dũng mãnh và cương quyết. Theo nhà nghiên cứu
Trần Lâm Biền: “Kim cương biểu hiện cho tâm trong sáng, không hủy hoại, kiên
định trong tu hành hay hộ trì Phật pháp nên gọi là Kim Cương Hộ pháp, y phục này
43